Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Tìm hướng thương mại hóa chip điện tử

Tìm hướng thương mại hóa chip điện tử

Đại diện ICDREC và các doanh nghiệp kí kết hợp tác phát triển và thương mại chip SG8V1. Ảnh: HỒNG THÚY.



Đủ lực nghiên cứu và chế tạo


Cách đây gần một thập niên, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) thuộc Đại học quốc gia TP HCM được thành lập. Thời điểm đó, các cán bộ, kĩ sư của trung tâm được xem là những người tiên phong tìm hiểu về công nghệ vi mạch, ngành công nghiệp vốn được thế giới làm chủ từ nhiều năm trước đó.


Trải qua không ít khó khăn, thử thách, đến nay, ICDREC đã có những sản phẩm đầu tiên, được giới công nghệ cũng như bạn bè quốc tế, doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực trên thế giới tìm hiểu, hợp tác. Có thể kể đến những sản phẩm mang thương hiệu chip Việt đã tạo được dấu ấn, như chip xử lí 32 bit VN-1632; chip LDO quản lí năng lượng đầu tiên của Việt Nam TH-7150; linh kiện vi cân tinh thể thạch anh (QCM - Quatz Crystal Microbalance); cảm biến áp suất… Ngày 20/11 vừa qua, sản phẩm chip vi điều khiển 8 bit thương mại SG8V1 của Việt Nam đã được nhận giải nhất sản phẩm công nghệ thông tin thành công tại Lễ trao giải thưởng “Nhân tài đất Việt 2014”.


Thời gian qua, chip thương mại SG8V1 đã được ICDREC ứng dụng thành công trên nhiều dòng sản phẩm thương mại, như thiết bị giám sát hành trình xe ô-tô, hộp đen xe máy, khóa điện tử giám sát quản lí công-ten-nơ, điện kế điện tử 1 pha, modem thu thập dữ liệu điện kế từ xa. Sắp tới, loại chip này sẽ được hoàn thiện và thương mại hóa trên khoảng 20 nhóm sản phẩm khác. Giám đốc ICDREC Ngô Đức Hoàng cho rằng: Với những giá trị có tính ứng dụng cao, thiết thực với đời sống, các sản phẩm của đơn vị đã khẳng định được tiềm năng ứng dụng, hiệu quả hoạt động trên hàng loạt thiết bị phần cứng của chip SG8V1, tạo tiền đề phát triển các dòng chip thương mại khác. Điều này cũng khẳng định năng lực nghiên cứu và chế tạo vi mạch của đội ngũ kĩ sư Việt Nam hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu sử dụng đối với các sản phẩm công nghệ của Việt Nam.


Trước đó, ngày 14/12/2012, UBND thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 6358/QĐ-UBND về phê duyệt “Chương trình phát triển công nghiệp vi mạch thành phố giai đoạn 2013 - 2020” với các mục tiêu, nhiệm vụ gắn với bảy chương trình, đề án, dự án: Đào tạo thiết kế vi mạch; Ươm tạo doanh nghiệp công nghệ vi mạch và hệ thống nhúng; Phát triển thị trường vi mạch; Nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm; Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ phát triển công nghiệp vi mạch; Xây dựng nhà máy sản xuất; Xây dựng nhà thiết kế (Design House).


Sau hơn một năm rưỡi triển khai thực hiện, chương trình đã bổ sung thêm ba đề án khác là: Phát triển sản phẩm đầu cuối sử dụng vi mạch điện tử; Phòng thí nghiệm và sản xuất thử nghiệm vi mạch (Lab-to-Fab) và Phát triển sản phẩm vi cơ điện tử (MEMS). Ngoài ra, trong khuôn khổ dự án phát triển phương tiện sản xuất vi mạch, một chương trình nghiên cứu khả thi về mô hình Xưởng cực tiểu đã được chấp thuận cho triển khai, nhằm tìm hiểu thêm một hướng đi mới cho hoạt động kết hợp từ nghiên cứu, phát triển, rồi sản xuất vi mạch số lượng nhỏ.


Các đề án nghiên cứu, chế tạo và ứng dụng các sản phẩm cũng nhận được sự tham gia, hưởng ứng của rất nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một hệ sinh thái cho ngành công nghiệp vi mạch của thành phố...


Hướng đến thị trường trong nước


Sau những thành công trong việc thiết kế và chế tạo nhiều sản phẩm vi mạch mang thương hiệu Việt Nam, quyết định thương mại hóa sản phẩm chip SG8V1 là một bước đi mang tính đột phá trong mục tiêu phát triển của lĩnh vực này. Chủ trương của thành phố xác định ưu tiên phát triển các sản phẩm nhằm phục vụ cho thị trường nội địa.


Thế nhưng, mọi chuyện không phải lúc nào cũng thuận lợi. Dù chất lượng đã được khẳng định, song theo nhiều chuyên gia, việc đưa các sản phẩm vi mạch “vươn ra biển lớn” sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thử thách. Theo phân tích của Giám đốc Ngô Đức Hoàng, tâm lí “đóng cửa” của nhiều doanh nghiệp nhà nước đối với sản phẩm vi mạch “cây nhà lá vườn” chính là trở ngại lớn nhất khi ICDREC cũng như các đơn vị liên quan hướng đến việc thương mại hóa. Qua khảo sát cho thấy, khi đặt vấn đề sử dụng sản phẩm, nhiều doanh nghiệp có tâm lí e ngại. Từ trước đến nay, các doanh nghiệp thường sử dụng theo kiểu mua sản phẩm có sẵn từ bên ngoài, còn việc hợp tác nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng và nguồn tài chính đủ mạnh để triển khai chỉ đếm trên đầu ngón tay, cho nên hoạt động thương mại gặp khó khăn là điều dễ hiểu.


GS Đặng Lương Mô, Cố vấn cấp cao của Đại học quốc gia TP HCM về chương trình vi mạch cho rằng: Với lợi thế dân số gần 90 triệu người và còn tăng thêm trong tương lai, Việt Nam sẽ là một thị trường tiềm năng để các sản phẩm vi mạch nội địa tìm được chỗ đứng cũng như cạnh tranh với sản phẩm từ bên ngoài. Dù đi sau nhiều nước, song nếu đầu tư đúng thời điểm, có chiến lược, tầm nhìn dài hạn, không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng, hoàn thiện sản phẩm… thì trong tương lai, các sản phẩm của chúng ta sẽ tạo được niềm tin đối với người dân trong nước.


Theo Giám đốc ICDREC Ngô Đức Hoàng, các chính sách phát triển cần có cơ chế “kéo” các doanh nghiệp nhà nước cùng tham gia. Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đang diễn ra sôi nổi và ngày càng đạt hiệu quả thiết thực, sẽ là một lợi thế để kích thích người dân Việt Nam ứng dụng các sản phẩm vừa “ích nước lợi nhà”, vừa bảo đảm được các yếu tố về bảo mật, an ninh,…


Bên cạnh đó, thành phố cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ xây dựng nhà máy sản xuất chip cũng như Xưởng cực tiểu để đáp ứng những “mẻ hàng” đầu tiên sẽ được các doanh nghiệp đặt trong tương lai không xa...


Theo Nhandan.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.