Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2014

Điểm danh những ngôn ngữ lập trình “một kí tự”

Điểm danh những ngôn ngữ lập trình “một kí tự”

Dù không phải là ngôn ngữ lập trình đầu tiên được đặt tên theo xu hướng “một kí tự”, nhưng C đã trở thành một phần nào của truyền thống đặt tên ngôn ngữ lập trình với một kí tự duy nhất và sau đó được phổ biến rộng rãi cho đến hiện nay.


Ngôn ngữ C


Cách đây đã lâu, hai nhà lập trình là Brian Kernighan và Dennis Ritchie (gọi tắt là K&R) lên kế hoạch tạo ra Unix bằng cách sử dụng ngôn ngữ B, một ngôn ngữ nội bộ của hãng AT&T. Tuy nhiên, B không thể xác định được những byte riêng, vốn là một vấn đề lớn lúc đó nên K&R đã phải bổ sung thêm nhiều tính năng để tạo ra C. Ngôn ngữ này sau đó đã nhanh chóng trở nên phổ biến và là ngôn ngữ chung cho Unix. C ngày càng phát triển và có thêm nhiều tính năng hướng đối tượng rồi cuối cùng trở thành C++.


Ảnh

Dennis Ritchie, cha đẻ của ngôn ngữ C.



Việc lập trình ngày nay rất khác so với những ngày đầu của Unix. Thời đó, có rất nhiều bit và byte mà các lập trình viên không thể "trỏ" (point) đến. Vì vậy, hầu hết dự án lớn ngày đó bên cạnh việc phải sử dụng những ngôn ngữ mạnh mẽ còn đòi hỏi nhiều về kĩ năng của lập trình viên. Cho đến nay, ngôn ngữ C vẫn sống mặc dù cần phải tinh chỉnh các bit và byte ở mức thấp nhất của hệ điều hành và bộ nạp khởi động. Nếu bạn đang viết một trình điều khiển máy in hoặc những phần mềm không quan trọng, C vẫn còn là "ngôi sao lớn" để lựa chọn.


Ngôn ngữ D


Khi kỉ nguyên lập trình bắt đầu, C vẫn tuyệt vời cả về tính linh hoạt và biểu cảm nhưng vẫn còn điểm yếu. Vì là một bước cải tiến so với ngôn ngữ cấp thấp trước đó nên C dễ dàng làm việc với các bit và byte vào và ra của CPU. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, việc lập trình bằng C đôi khi gặp khó khăn khi trỏ đến một số bit và byte.


Do đó, những người sáng tạo ra D muốn xây dựng một ngôn ngữ có nhiều khả năng diễn đạt hơn. Bạn có thể viết các vòng lặp đơn giản và hệ thống D sẽ dọn sạch các bit lộn xộn trong bộ nhớ và không cho can thiệp vào cấu trúc dữ liệu.


Ngôn ngữ D có một số tính năng mà mọi người mong đợi (chẳng hạn như đối tượng) và một số bất ngờ giống như những cấu trúc cho lập trình chức năng. Nếu muốn tạo một bất biến, bạn có thể làm điều đó trong D và sử dụng trong một hàm đệ quy. D có hầu hết tính năng mạnh mẽ của C nhưng được nâng cấp hiện đại hơn. Nếu đang viết trình điều khiển thiết bị, bây giờ bạn có thể làm điều đó mà không cần phải lo lắng nhiều về bộ nhớ hoặc những lỗi con trỏ đơn giản.


Ngôn ngữ F


Fortran là một ngôn ngữ lập trình biên dịch được phát triển từ thập niên 1950 và vẫn được dùng nhiều trong tính toán khoa học hay phương pháp số cho đến hơn nửa thế kỉ sau đó. Fortran Company sau đó đã tạo ra ngôn ngữ F đơn giản hơn, rõ ràng hơn và được phát triển như một phiên bản Fortran hiện đại.


Ngôn ngữ này được thiết kế để tương thích với các phiên bản trước. Bạn có thể kết nối F với Fortran 77 và tất cả phần mềm cũ. Trên thực tế, F không thực sự là một công cụ độc lập. Bạn có thể chọn tùy chọn dòng lệnh và trình biên dịch Fortran 95 sẽ biến thành trình biên dịch F để có thể thực thi các quy định rõ ràng hơn.


Ngôn ngữ F#


F# rất khác so với F, cũng giống như C# khác với C.


Ngôn ngữ F# là ngôn ngữ lập trình chức năng được thiết kế với ý tưởng rằng phần mềm sẽ tốt hơn khi được xây dựng với các chức năng đơn giản mà không bị làm lộn xộn bởi dữ liệu bên ngoài. Điều đó giúp cho mã trong F# dễ hiểu hơn, gỡ lỗi nhanh hơn và thuận lợi hơn để tối ưu hóa trình biên dịch.


Ảnh

F# là ngôn ngữ lập trình chức năng dành cho Android và iOS.



Tuy nhiên, không phải ai cũng có nhiều kinh nghiệm với các ngôn ngữ lập trình chức năng. F# khiến cho các nhà lập trình bấy giờ cảm thấy lạ lẫm với các định nghĩa vòng lặp, dãy, đối tượng và các biến có thể thay đổi.


Hiện nay, F# có nhiều phiên bản dành cho các nền tảng chính như Android, iOS và một số hệ điều hành để bàn.


Ngôn ngữ G


Trong giai đoạn khi mà Internet of Things còn là một định nghĩa hoàn toàn mới mẻ, các nhà lập trình G đã sử dụng mã của họ để xây dựng nên những dự án với các hạng mục vật lí trong nhiều ngành công nghiệp. Ngôn ngữ này được sử dụng rộng rãi để điều khiển các máy xay xát kim loại, gỗ hoặc nhựa để chế biến thành các sản phẩm khác.


Nhiều phiên bản của ngôn ngữ G đã xuất hiện cách đây hơn 50 năm.


G đã có thêm một số chức năng để định vị và tái định vị các công cụ cắt. Chẳng hạn, G96 là mã để thay đổi tốc độ tương đối của công cụ cắt. Việc thiếu sự trừu tượng hóa này có thể là lí do khiến nhiều nhà khai thác gọi là "G-code" thay vì suy nghĩ về G như một ngôn ngữ đầy đủ.


Ngôn ngữ J


J là một ngôn ngữ lập trình cao cấp, hiệu suất cao. J có thể chạy trực tiếp mà không cần phải cài đặt và tương thích với hệ điều hành Windows, Unix, Mac và các thiết bị cầm tay PocketPC, cả hai như là một giao diện đồ họa và trong giao diện.


Ngôn ngữ J đặc biệt phát huy thế mạnh trong các lĩnh vực phân tích toán học, thống kê và logic dữ liệu. Đây là một công cụ mạnh mẽ trong việc xây dựng các giải pháp mới và tốt hơn, thậm chí tốt hơn trong việc tìm kiếm các giải pháp về các vấn đề chưa được hiểu rõ.


Ngôn ngữ K


K là một ngôn ngữ xử lí dãy được phát triển bởi Arthur Whitney và được thương mại hóa bởi công ty Kx Systems. Ngôn ngữ này ban đầu được phát triển vào năm 1993, là một biến thể của ngôn ngữ lập trình chức năng APL (A Programming Language). Ngôn ngữ K nhấn mạnh vào tốc độ, khả năng xử lí dãy và cú pháp biểu cảm.


K cũng là một ngôn ngữ lập trình hệ thống cấp cao, tương thích với các nền tảng Windows, Solaris, Linux và một vài phiên bản Unix khác. K có nhiều tính năng độc đáo mà các ngôn ngữ khác không có. Ngôn ngữ này phù hợp mục đích giáo dục, nghiên cứu hoặc ngành sản xuất đồ chơi.


Ngôn ngữ M


Một số nhà phát triển đã xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu cho giới y học gọi là "Massachusetts General Hospital Utility Multi-Programming System" và sau đó rút gọn thành “MUMPS”. Khi xu hướng đặt tên thay đổi, MUMPS được tổ chức ANSI quyết định đổi tên thành M vào năm 1995. Dù vậy, một số nhà lập trình ngày nay vẫn quen gọi là "M/MUMPS".


Bản thân ngôn ngữ này thường được xem là một trong những ví dụ ban đầu của kiểu cơ sở dữ liệu giá trị quan trọng, vốn là mô hình hiện đang được tái khám phá giống như các cửa hàng dữ liệu NoSQL. Ngôn ngữ M thực hiện công việc lưu trữ dữ liệu và xử lí bộ nhớ đệm cũng như di chuyển dữ liệu giữa bộ nhớ và đĩa cứng.


Y tế hiện là một trong những lĩnh vực dùng ngôn ngữ này nhiều nhất, nhưng M vẫn luôn có những vị trí đặc biệt trong các ngành công nghiệp khác như ngân hàng, vốn là nơi có nhu cầu xử lí một lượng dữ liệu cực kì lớn.


Ngôn ngữ P


Phiên bản ngôn ngữ P do Microsoft thiết kế để giúp các nhà lập trình dễ dàng viết mã cho tất cả loại thiết bị nhỏ trên thế giới, hay còn gọi là thiết bị Internet of Things.


Những thiết bị này thường dành phần lớn thời gian chờ đợi để được hướng dẫn, sau đó chúng sẽ thực hiện các lệnh theo yêu cầu.


Ảnh

Internet of Things là lĩnh vực chính của ngôn ngữ P.



P yêu cầu các nhà lập trình xây dựng một "sơ đồ trạng thái" với các nốt (node).


Đầu vào từ người sử dụng sẽ kích hoạt quá trình chuyển đổi từ một nốt trạng thái này đến một nốt trạng thái khác. Ngoài ra, còn có một phiên bản đồ họa của mã trông giống như một loạt các khối hình hộp chữ nhật đại diện cho các trạng thái với một loạt mũi tên kết nối giữa các hình. Các lệnh không đồng bộ tạo ra một bước nhảy từ một hình này sang một hình khác dọc theo chiều những mũi tên.


Microsoft đã xây dựng cả giao diện đồ họa và văn bản cho P. Trình biên dịch chuyển đổi sơ đồ trạng thái thành mã C, sau đó lần lượt biên dịch như thường lệ. Trước đây, chỉ cần đơn giản chuyển giao sơ đồ trạng thái để nhà lập trình tạo mã, nhưng quá trình chuyển giao không phải lúc nào cũng luôn chính xác. Microsoft gần đây đã sử dụng các kĩ thuật riêng để cải thiện vấn đề này.


Ngôn ngữ R


Một thời gian dài trước khi máy tính mainframe phổ biến, R được gọi là S và các nhà nghiên cứu đã sử dụng ngôn ngữ này để tính toán thống kê. Những cái tên đã thay đổi nhưng R vẫn là một đệm trực tuyến để trích xuất số liệu thống kê từ các bảng dữ liệu lớn. Bạn có thể tải dữ liệu, gọi các tính năng để đo mối tương quan dữ liệu, sau đó lần lượt biến những tương quan này thành đồ thị phức tạp.


Việc sử dụng R bây giờ dễ dàng hơn chút ít nhờ vào các công cụ như Rcmdr, RStudio và một loạt tính năng khác. Nếu không có R, tất cả những gì bạn phải làm là nhìn vào một bảng đầy các con số.


Với ngôn ngữ lập trình R, bạn có thể xây dựng các biểu đồ ưa thích từ những con số phức tạp và thậm chí có thể giải thích những gì đang xảy ra bên trong bảng dữ liệu khó hiểu đó.


Theo PC World VN.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.