Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Lý do người dùng quay lưng với điện thoại “made in Vietnam”

Lý do người dùng quay lưng với điện thoại “made in Vietnam”

Điện thoại Việt thiếu gì?


Sự kiện VNPT công bố hai mẫu điện thoại "made in Vietnam" và phát biểu của đại diện hãng đã thu hút nhiều tranh luận. Trong rất nhiều bình luận trên Zing.vn, độc giả cho rằng, smartphone Việt Nam còn thiếu nhiều thứ.


Thiết kế là yếu tố rất quan trọng của một chiếc điện thoại, nhưng dưới góc nhìn của người tiêu dùng, sản phẩm "made in Vietnam" chưa có ngôn ngữ thiết kế đặc trưng và phần nào vẫn còn thô kệch.


Đơn cử là logo. Các sản phẩm đang thịnh hành hầu hết được làm khá nhỏ, thanh thoát, ngay cả những model bán qua nhà mạng cũng gắn biểu tượng với kích thước vừa phải. Trong khi đó, logo sản phẩm do Việt Nam sản xuất bị đánh giá là quá to, chiếm diện tích lớn, khiến chiếc điện thoại kém tính thẩm mĩ.


Bên cạnh thiết kế, cấu hình cũng là điểm mà điện thoại made in Vietnam chưa thuyết phục được số đông người dùng. Bạn đọc Hữu Thọ chia sẻ: "Thấy hàng Việt Nam cũng định mua một cái để ủng hộ, nhưng với cấu hình được công bố thì mua về chẳng biết làm gì. Pin thì có 1400 mAh, chip 1 GHz, RAM 512 MB".


“Giờ những người trẻ sử dụng điện thoại nhiều hơn người lớn, cấu hình như thế có lẽ không đủ thu hút để họ có trải nghiệm nhiều với game hay các ứng dụng cần nhiều RAM. Bên cạnh đó, tốc độ xử lí, hệ điều hành Android cũng không tối ưu RAM. Có lẽ nên ra một sản phẩm ở phân khúc trung hoặc cao cấp với cấu hình hấp dẫn hơn”, một độc giả phân tích.


Ngoài ra, nhiều người cũng chưa hài lòng với khâu dịch vụ bảo hành và chăm sóc khách hàng theo kiểu “mì ăn liền” của các đơn vị sản xuất trong nước. Điều này chưa kể phụ kiện thay thế không có, hoặc khó khăn, chật vật lắm người dùng mới tìm được để thay thế.


“Đối với những bạn sinh viên, người ăn chắc mặc bền, đồng lương hạn hẹp, họ có dám mua sản phẩm có các yếu tố trên không? Người dùng luôn chú trọng độ bền, giá cả, nhưng nhà sản xuất Việt vẫn chưa làm được điều đó”, độc giả có tên Tiều Phu nhận xét.


Cùng chung ý kiến, độc giả Mr Duy đặt câu hỏi, các hãng điện thoại đã bao giờ mở những cuộc thăm dò hay vào các diễn đàn xem ý kiến của người tiêu dùng để biết đánh giá, nhìn nhận của mọi người về sản phẩm do mình sản xuất hay chưa? "Vì lợi ích của bản thân, tôi nghĩ chẳng ai muốn bỏ ra một số tiền để mua món hàng không tương xứng với giá trị thực. Trong khi đó, với mức giá như vậy, người dùng lại có rất nhiều lựa chọn tốt hơn khi mua sản phẩm của hãng khác”, anh thẳng thắn.


Nên ủng hộ hàng Việt


Bên cạnh những ý kiến chưa hài lòng với mẫu mã, giá thành, chất lượng dòng điện thoại thông minh made in Vietnam, nhiều bạn đọc lại có quan điểm ngược lại. “Rất tuyệt. Việt Nam tự sản xuất 100% chiếc điện thoại này là dấu hiệu đáng mừng. Vài năm nữa chúng ta có thể hi vọng về một nền công nghiệp điện thoại mạnh như iPhone hay Samsung. Hoan hô VNPT”, một độc giả chia sẻ.


Theo quan điểm của bạn đọc có nickname DrMing Fang, sản phẩm mới đã tốt hơn nhiều so với sản phẩm trước đó. “Nhà sản xuất Việt cho ra mắt 2 phiên bản, nên tương lai phiên bản tiếp theo sẽ tốt, hoàn hảo hơn. Bây giờ người Việt sử dụng công nghệ hiện đại nhưng các nhà sản xuất trong nước vẫn chưa bắt kịp nhu cầu, xu hướng, nên sản xuất ra sản phẩm made in Vietnam chậm hơn là hiển nhiên”. Do đó, muốn VNPT và các thương hiệu Việt có nhiều sản phẩm tốt hơn, người tiêu dùng phải ủng hộ, khuyến khích các nhà sản xuất.


Quyết định ủng hộ hàng Việt Nam dù cấu hình thấp cũng là chia sẻ của anh Hứa Tấn. Với anh, nhu cầu sử dụng điện thoại chủ yếu chỉ là để nghe gọi, nhắn tin, vì vậy anh sẽ mua một trong hai chiếc điện thoại mới của VNPT để cổ vũ cho sản phẩm made in Vietnam mang đậm phẩm chất và trí tuệ người Việt.



Bạn có muốn lựa chọn một smartphone/điện thoại thương hiệu Việt




  • Có, ủng hộ hàng Việt Nam

  • Không, nó không có gì đặc sắc

  • Không quan tâm




Theo Zing.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.