Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Bộ Tài chính: Minh bạch hóa quản lí tài chính công

Bộ Tài chính: Minh bạch hóa quản lí tài chính công

CNTT là đòn bẩy hiện đại hóa


Tại lễ kỉ niệm 25 năm thành lập Cục Tin học & Thống kê Tài chính, Bộ Tài chính diễn ra sáng 22/10/2014 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà cho biết: "Trước đây, khi chưa ứng dụng CNTT vào công tác quản lí tài chính ngân sách Nhà nước, rất nhiều nghiệp vụ phải làm thủ công vất vả. Chẳng hạn khi lên bảng quyết toán của Kho bạc Nhà nước đồng thời cũng là bảng quyết toán thu chi ngân sách Nhà nước, hệ thống bảng biểu có kích thước lớn bằng ½ cái bàn. Những con số trong bảng quyết toán theo mục lục ngân sách chi chít hàng ngang hàng dọc. Công tác quản lí, thống kê hạch toán gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, từ những năm 89 - 90 của thế kỉ trước, lãnh đạo Bộ Tài chính đã nhận thấy vai trò và hiệu quả của CNTT trong việc giải quyết bài toán nghiệp vụ của ngành".


Ngày 22/10/1989, Tổ nghiên cứu Đề án tổ chức hệ thống Tin học ngành tài chính được thành lập, chính thức khởi động công cuộc nghiên cứu và triển khai ứng dụng CNTT vào công tác quản lí tài chính. Tổ nghiên cứu gồm 8 cán bộ hoạt động dưới sự chỉ đạo của Chánh văn phòng Bộ lúc bấy giờ là đồng chí Nguyễn Sinh Hùng (sau là Bộ trưởng Bộ Tài chính, nay là Chủ tịch Quốc hội), và đồng chí Phạm Văn Thuận (nguyên Cục trưởng đầu tiên của Cục Tin học và Thống kê tài chính). Đây cũng là dấu mốc đánh dấu cho sự hình thành bộ máy tổ chức của Cục Tin học & Thống kê tài chính ngày nay, đơn vị được Bộ Tài chính giao nhiệm vụ thống nhất quản lí và triển khai ứng dụng CNTT trong toàn ngành Tài chính.


"Từ đó đến nay, ngành Tài chính đã triển khai rất nhiều đề án cải cách. Những bài toán cốt lõi nhất trong quản lí tài chính công đã được ứng dụng CNTT. Các hệ thống CNTT trong khối thị trường, đặc biệt là thị trường vốn và thị trường chứng khoán cũng đã có bước phát triển khá nhanh. Hiện các nhà đầu tư chứng khoán có thể kết nối với hệ thống của các công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu kí chứng khoán, thậm chí có thể dùng điện thoại di động đưa lệnh giao dịch vào hệ thống", Thứ trưởng Trần Xuân Hà chia sẻ thêm.


Minh bạch hóa quản lí tài chính công


Theo ông Đặng Đức Mai, Cục trưởng Cục Tin học & Thống kê tài chính: Hiện ngành tài chính đã tin học hóa hơn 95% nghiệp vụ, với hơn 100 ứng dụng phần mềm được triển khai toàn ngành, sẵn sàng đáp ứng nhu truy cập và khai thác thông tin phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các cấp. Công tác quản lí tài chính công ngày càng đảm bảo tính công khai, minh bạch, hiệu quả cao nhờ vào việc triển khai các hệ thống ứng dụng CNTT. Điển hình như Hệ thống thông tin quản lí ngân sách và kho bạc (hệ thống TABMIS) tới giờ đã hoàn tất quá trình triển khai và tiếp nhận quản trị vận hành thành công trên phạm vi toàn quốc, cơ bản đạt các mục tiêu đề ra là nâng cao tính minh bạch trong quản lí tài chính công, giảm thiểu tiêu cực và tăng tính lành mạnh tài chính; Hoặc Hệ thống Quản lí thuế Thu nhập cá nhân được triển khai trong cả nước, quản lí hơn 20 triệu người nộp thuế, đã hỗ trợ tối đa các chức năng cơ bản trong quản lí thuế thu nhập cá nhân.


Một minh chứng điển hình khác là Hệ thống thông quan tự động và cơ chế một cửa quốc gia (VNACCS/VCIS) được triển khai chính thức từ 1/4/2014 cũng đã đem lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, với thời gian xử lí hồ sơ thông quan được rút ngắn xuống còn 1 - 3 giây. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đưa vào áp dụng chính thức trong toàn ngành Hải quan một hệ thống thông quan hàng hóa theo thông lệ quốc tế, đạt trình độ tương đương các nước tiên tiến khu vực Đông Nam Á.


Song song với đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tác nghiệp chuyên ngành, Bộ Tài chính cũng tập trung cao cho việc triển khai ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp. "Đến nay, Cổng thông tin Bộ Tài chính và 5 cổng thông tin của các Tổng cục (Thuế, Kho bạc, Hải Quan, Dự trữ Nhà nước và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) đã cung cấp 980 thủ tục hành chính công mức 1 và mức 2; 6 dịch vụ hành chính công đạt mức độ 3 và 8 dịch công mức độ 4. Trong đó, rất nhiều ứng dụng phục vụ người dân và doanh nghiệp được cung cấp miễn phí như: kiosk thông tin; ứng dụng hỗ trợ kê khai thuế - mã vạch; ứng dụng khai hải quan điện tử… Thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công phục vụ người dân và doanh nghiệp, góp phần thực hiện thành công Chiến lược tài chính đến năm 2020", ông Đặng Đức Mai nói.



Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Minh Hồng


Những năm qua, ngành Tài chính luôn đi tiên phong trong việc ứng dụng CNTT cung cấp dịch vụ công nhằm nâng cao mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Hoạt động ứng dụng CNTT trong các lĩnh vực Hải quan, Thuế, Kho bạc đã tăng cường tính minh bạch, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong giao dịch, thúc đẩy nhu cầu ứng dụng CNTT của toàn xã hội, góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người, công dân điện tử tại Việt Nam. Việc ứng dụng CNTT trong ngành Tài chính còn góp phần thúc đẩy các ngành khác cũng phát triển ứng dụng CNTT để kết nối với ngành tài chính, tạo thị trường sản phẩm dịch vụ cạnh tranh cho các doanh nghiệp CNTT Việt Nam, góp phần phát triển nhân lực CNTT quốc gia.




Theo ICTnews.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.