Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Facebook: quyền riêng tư và tiền quảng cáo

Facebook: quyền riêng tư và tiền quảng cáo

Quyền riêng tư trên internet đang ngày càng trở thành một đề tài nóng bỏng. Từ lâu những cáo buộc việc sử dụng dữ liệu cá nhân để kinh doanh đã là ngọn lửa ngầm và nó thật sự bùng nổ khi Chính phủ Mỹ thừa nhận đã nghe lén và lưu trữ dữ liệu cá nhân.



Vào ngày 13/3, ông chủ Facebook Mark Zuckerberg đã gọi điện cho Tổng thống Obama để bày tỏ sự giận dữ của mình. “Khi những kĩ sư giỏi nhất của chúng tôi làm việc cật lực để nâng cao tính bảo mật, chúng tôi hình dung mình đang chống lại các loại tội phạm chứ không phải Chính phủ”, Zuckerberg chia sẻ trên trang Facebook của mình.


Facebook sẽ hết miễn phí


Đồng thời với tuyên bố táo bạo ấy, Facebook cũng ra mắt giao diện mới và giao diện này được đánh giá là “hướng sự chú ý của người đọc vào quảng cáo nhiều hơn”. Bên cạnh động thái thay đổi giao diện trên, Facebook đã âm thầm giảm tầm ảnh hưởng những trang hâm mộ của các thương hiệu. Theo một nghiên cứu của Social@Ogilvy, từ tháng 10/2013 độ phủ của các trang hâm mộ này đã giảm đến hơn 50%, xuống chỉ còn trung bình 6% trên tổng số người theo dõi.


“Độ phủ tự nhiên của các nội dung thương mại trên Facebook sẽ sớm giảm xuống bằng 0. Đó chỉ là vấn đề thời gian”, Marshall Manson, Giám đốc Điều hành của Social@Ogilvy, dự báo.


Trên sự thay đổi đó, khái niệm “miễn phí” khi quảng cáo trên Facebook sẽ sớm biến mất và Facebook sẽ đơn thuần là một kênh quảng cáo trả tiền. Một cách logic thì đây là một sự thay đổi có lợi cho người dùng: chúng ta lên Facebook để kết nối và cập nhật thông tin của bạn bè chứ không phải để xem nội dung thương mại.


Nhưng đây cũng là một chiến lược kép của Facebook: khiến cho người dùng cảm thấy an tâm và bớt than phiền hơn, nhưng đồng thời thúc đẩy các thương hiệu phải chi mạnh tay nếu muốn tiếp tục tận dụng Facebook. Và hệ sinh thái Facebook sẽ càng mạnh mẽ hơn với sự kết hợp của Instagram và gần đây là WhatsApp. WhatsApp với hơn 450 triệu người dùng thường xuyên và dự kiến đạt mốc 1 tỉ người dùng vào tháng 8.2015, hiện vẫn kiếm tiền từ thu phí trực tiếp (0,99 USD/năm) của người dùng. Nhưng điều này không chắc sẽ tồn tại khi Facebook đang thương mại hóa bằng hình thức quảng cáo rất triệt để. Đây sẽ là một cú sốc lớn đối với những chuyên viên marketing nhưng không có nhiều người có thể nói “không” với đế chế 2 tỉ người dùng của Facebook và WhatsApp. Một cách tóm tắt, định hướng của Facebook là: dữ liệu của bạn sẽ an toàn với chúng tôi và chúng tôi chỉ dùng chúng để kiếm tiền thôi.


Một ngoại lệ nhỏ trên Facebook là những trang hâm mộ của những đơn vị phát triển nội dung như các tờ báo lớn vẫn sẽ có nhiều ưu tiên trong việc phủ rộng đến người tiêu dùng. Ngoại lệ này có thể được hiểu dưới góc độ: nội dung do các đơn vị này chia sẻ thường có tính hữu dụng và tương tác cao, qua đó tăng thêm số trang xem và số lần hiển thị của Facebook. Điều đó đồng nghĩa với việc tăng thêm cơ hội hiển thị quảng cáo.


Đã qua thời thí nghiệm


Bên cạnh những mạng xã hội dùng danh tính thật như Facebook hay WhatsApp, ngày càng có nhiều mạng xã hội ẩn danh. Tumblr, trước khi bị Yahoo! mua lại, được xem là thiên đường ẩn danh của giới trẻ vì mạng xã hội này hầu như không có khái niệm “hồ sơ người dùng”. Và gần đây nhất là Snapchat, một mạng xã hội tự động xóa tất cả nội dung người dùng chia sẻ sau 24 giờ. Facebook từng cố gắng bắt chước và đề nghị mua lại Snapchat với giá 3 tỉ USD nhưng bị từ chối.


Tại Nhật, mạng xã hội ẩn danh rất phổ biến và đang dần trở thành một trong những dịch vụ gia tăng được ưa chuộng nhất tại các mạng xã hội. Nếu không trả phí, nội dung của bạn phải phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng hay kinh doanh của mạng xã hội. Đó cũng là cách làm của Slideshare, khi tính năng “tải dữ liệu một cách cá nhân” chỉ dành cho các tài khoản Premium.


Một sự kiện khác minh họa cho việc đánh đổi sự riêng tư này là việc thương mại hóa nền tảng đo lường Google Analytics của Google. Với những website có trên 200.000 lượt truy cập mỗi tháng, nếu không nâng cấp lên phiên bản Premium (trị giá khoảng 150.000 USD mỗi năm) thì sẽ bị 2 hạn chế: cập nhật dữ liệu bị trễ 48 tiếng và chỉ lưu được trong 3 tháng gần nhất. Bởi lẽ, sau nhiều năm gắn mác “thử nghiệm” với điều khoản “chia sẻ thông tin với chúng tôi một cách ẩn danh” cho phép Google sử dụng dữ liệu của các website để hoàn thiện Google Analytics thì hiện nay Google đã tự tin thu phí. Dường như Google muốn nói: Chúng tôi không cần dữ liệu của bạn nữa mà chỉ cần tiền thôi. Tất nhiên, với phiên bản Premium, dữ liệu sẽ được bảo mật và không có sự can thiệp của Google. Có lẽ đã đến giai đoạn người sử dụng internet phải trả tiền để có được sự riêng tư.


Nhưng giới hạn của sự riêng tư đang bị thách thức với trào lưu thiết bị mới: thiết bị đeo kèm. Khi bạn sử dụng thiết bị như vòng tay Nike Fuel band hay Misfit Wearable, nhất cử nhất động của bạn đều được tự động lưu trữ và cập nhật lên internet. Và với Google Glass, giới hạn càng mỏng manh hơn: Google thấy những gì bạn đang thấy, nghe những gì bạn đang nghe ngay lập tức. Và chắc chắn vấn đề bảo mật sẽ còn là một chủ đề tranh cãi lâu dài.


Những điều trên có ý nghĩa gì với người dùng? Có lẽ đây là lúc sự thật của internet phơi bày: không có sự miễn phí nào cả - tất cả đều là đổi chác. Bạn nhận tiện ích và trả bằng dữ liệu cá nhân, thời gian sử dụng và trên hết, cơ hội tiềm ẩn của việc phải-mua-hàng.


Theo Nhịp Cầu Đầu Tư



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.