Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Chuyện chưa kể về những ngày “thai nghén” iPhone

Chuyện chưa kể về những ngày “thai nghén” iPhone

Trong vụ kiện tranh chấp bằng sáng chế với Samsung, Apple đã buộc phải cung cấp nhiều chi tiết thú vị về quá trình nghiên cứu và xây dựng iPhone.


Ảnh

Steve Jobs giới thiệu iPhone lần đầu tiên vào ngày 9/1/2007. Ảnh: Associated Press.



Chuyện chỉ được kể từ vụ kiện giữa Apple – Samsung


Tháng 2/2005, Steve Jobs, khi đó là Tổng giám đốc Apple, đưa cho kĩ sư phần mềm cấp cao Greg Christie một tối hậu thư. Suốt nhiều tháng, nhóm nghiên cứu của ông Christie gặp khó khăn trong việc nghiên cứu phần mềm cho iPhone. Steve Jobs cho nhóm thời hạn 2 tuần để hoàn thành, nếu không ông sẽ giao dự án cho nhóm khác.


Ông Christie, người hiện nay vẫn đứng đầu đội nghiên cứu giao diện người dùng của Apple, nhớ lại: “Steve muốn có những ý tưởng lớn hơn và những mô hình tốt hơn”.


Nhóm của ông Christie có công phát triển nhiều tính năng iPhone, như vuốt để mở khóa điện thoại, thực hiện cuộc gọi từ danh bạ và trình nghe nhạc điều khiển bằng thao tác cảm ứng. iPhone đã loại bỏ bàn phím vật lí để sử dụng một màn hình chiếm toàn bộ bề mặt và chạy phần mềm giống các chương trình trên máy tính cá nhân hơn.


Ông Christie không bao giờ công khai kể lại những ngày đầu phát triển iPhone. Nhưng một đêm trước vụ kiện tranh chấp bằng sáng chế giữa Apple và Samsung, ông được giao nhiệm vụ trình bày trước tòa về cách iPhone đã ra đời.


Những ngày iPhone được “thai nghén” và ra đời


Năm 1996, ông Christie bắt đầu gia nhập Apple trong dự án phát triển thiết bị hỗ trợ cá nhân kĩ thuật số Newton. Tuy nhiên, dự án này thất bại do Newton quá cồng kềnh, đắt đỏ và phần mềm khó sử dụng. Mặc dù vậy, ông Christie vẫn thích thú với ý tưởng về một thiết bị vi tính bỏ túi.


Cuối năm 2004, ông Christie đang nghiên cứu phần mềm cho máy tính Macintosh thì Scott Forstall, một thành viên cấp cao phụ trách phần mềm của Apple, đi tới văn phòng của ông, đóng cửa và hỏi liệu ông có muốn tham gia một dự án bí mật có tên mã “purple”. Dự án này sẽ nghiên cứu một chiếc điện thoại tích hợp với máy nghe nhạc và dùng màn hình cảm ứng.


Vào thời điểm đó, Steve Jobs đang tập trung vào các sản phẩm chính, bao gồm iPod. Greg Joswiak, Phó Chủ tịch phụ trách tiếp thị sản phẩm chạy iOS, được giao nhiệm vụ theo dõi các nhà sản xuất điện thoại khác, xem họ có phát triển điện thoại tích hợp máy nghe nhạc để cạnh tranh với iPod hay không.


Đội của ông Christie mải mê nghiên cứu những chi tiết như tốc độ duyệt nhanh các danh sách trên điện thoại, cảm giác bật trở lại một cách tự nhiên khi tới cuối một danh sách. Ông nói với đội của mình: Hãy vắt óc nghĩ cách thay đổi cách hiển thị tin nhắn văn bản, từ một danh sách các tin nhắn riêng được sắp xếp theo trình tự thời gian, thành một loạt các đoạn hội thoại tương tự như tin nhắn tức thời trên máy tính.


Ông Christie cho biết nhóm này có số lượng thành viên cực ít, mặc dù Apple từ chối tiết lộ con số cụ thể.


Trong nhiều tháng, cứ hai tháng ông Christie lại thuyết trình với Steve Jobs một lần trong một phòng họp không có cửa sổ ở tầng hai trụ sở Apple tại Cupertino, California (Mỹ). Rất ít nhân viên có quyền vào căn phòng này, ngay cả những người quét dọn cũng không được phép vào.


Sau khi gây ấn tượng với Steve Jobs về ý tưởng phần mềm iPhone, nhóm của ông Christie phải trình bày một lần nữa với Bill Campbell, một thành viên trong Ban Giám đốc Apple và là bạn thân thiết với Steve Jobs. Ông Christie nhớ lại, Campbell từng nói chiếc điện thoại này sẽ tuyệt hơn máy Mac thế hệ đầu.


Vài ngày sau đó, Steve Jobs đề nghị nhóm thuyết trình lần thứ ba, lần này là với Jony Ive, Giám đốc thiết kế của Apple. Đội của Jony Ive đang thiết kế phần kính cho iPhone. “Anh ấy (Jony Ive) tò mò về cách chúng tôi nghĩ ra được những thao tác điều khiển phần mềm đầy ma thuật”, Christie nói.


Sau mỗi lần nghe thuyết trình, Steve Jobs lại cảm thấy phấn khích hơn. Ông Jobs yêu cầu rất khắt khe về vấn đề bảo mật. Ông đề nghị khi nghiên cứu tại nhà, nhân viên phải làm việc trong một phòng tách biệt để tránh người khác tình cờ xem được thông tin. Ông cũng yêu cầu nhân viên phải mã hóa hình ảnh về iPhone lưu trên máy tính.


Đầu năm 2005, cuộc chạy “marathon dài 2 năm rưỡi” bắt đầu khi Apple phải nghiên cứu lại từng phần của điện thoại, từ cách kiểm tra hộp thư thoại cho tới cách hiển thị lịch. Steve Jobs thực sự bị những chi tiết ám ảnh.


6 tháng trước khi iPhone lên kệ vào tháng 6/2007, nhóm của ông Christie vẫn tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những thay đổi khác. Với sự thúc giục của Steve Jobs, họ đã loại bỏ chế độ xem chia màn hình email với thông tin về người gửi ở một bên, và nội dung email ở một bên. “Steve Jobs nghĩ thật ngu ngốc nếu màn hình nhỏ như vậy còn bị chia đôi”, ông Christie nhớ lại.


Gần 7 năm đã trôi qua, nhưng có một khoảng khắc vẫn in dấu trong trí nhớ của ông Christie. Vài ngày trước khi Steve Jobs lên sân khấu giới thiệu iPhone, ông Christie bước vào khán phòng qua cửa phụ, dùng tới hai chiếc phù hiệu bảo mật. Sau khi khép lại tấm màn sân khấu rất dày, ông nhìn thấy hình ảnh khổng lồ về màn hình chủ của iPhone được chiếu trên màn hình giữa căn phòng tối. Thời khắc đó, ông nhận ra rằng chiếc điện thoại này sẽ thành công lớn: “Nó được chiếc sáng trong không gian rộng lớn. Trái tim tôi ngừng đập trong phút chốc và tôi nghĩ, thực sự là như vậy”.


Theo ICTnews/WSJ



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.