Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Các phóng viên công nghệ, hãy thôi “chém gió”!

Các phóng viên công nghệ, hãy thôi “chém gió”!

Phóng viên công nghệ chỉ là người truyền đạt lại thông tin từ nhân viên PR của hãng?



Nếu bạn không tin, hãy thử hỏi một phóng viên công nghệ về “những tính năng tuyệt vời nhất” của Google Maps hay mẫu iPhone mới, họ sẽ nói vanh vách, thậm chí họ còn có thể dự đoán được những tính năng này sẽ giúp cho sản phẩm đó thành công hay không. Nhưng hãy hỏi họ, ứng dụng Foursquare danh tiếng được lập trình bằng ngôn ngữ lập trình C hay Java... chắc chắn họ sẽ chẳng biết gì cả.


Điều này là dễ hiểu bởi hầu hết các phóng viên công nghệ chỉ biết chăm chăm chú ý vào những đặc tính của sản phẩm bằng con mắt của người tiêu dùng: Màn hình có gì, hiển thị ra sao, sản phẩm có các tính năng gì và người dùng sẽ được trải nghiệm cái gì… thay vì điều gì đã làm nên những tính năng, trải nghiệm đó. Nói một cách hình tượng, họ chỉ đang “chém gió” mà chẳng hiểu gì về sản phẩm và thực chất họ cũng chỉ là “người dùng” sớm hơn những người khác mà thôi.


“Tôi cho rằng khoảng cách giữa các nhà phát triển và các phóng viên công nghệ đang ở mức quá lớn, khó chấp nhận được. Điều này về lâu dài sẽ gây hại đến khả năng thấu hiểu ngành công nghiệp CNTT hay lĩnh vực công nghệ cao”, Sam Petulla, một biên tập viên của Contently – một dịch vụ kết nối các thương hiệu lớn với giới truyền thông, “Thông thường, khi mọi người hỏi một nhà phát triển một câu hỏi nào đó, cái họ muốn nhận là lời giải thích về kĩ thuật nhưng thường họ cũng nhận thức được sự hiểu biết về cách thức mà công nghệ được triển khai. Điều này có ý nghĩa lớn hơn nhiều. Nếu bạn dành thời gian để đào sâu vào những gì họ đang tư duy về mặt kĩ thuật bạn sẽ biết làm thế nào để nó kết nối được với một lượng độc giả rộng lớn hơn”.


Tất nhiên, chẳng cần phải biết lập trình bằng một thứ ngôn ngữ nào đó mới có thể làm phóng viên công nghệ nhưng có một điều chắc chắn rằng các phóng viên sẽ làm công việc của mình xuất sắc hơn nếu họ biết được rằng vì sao nhà phát triển lại dùng Ruby on Rails chứ không dùng Python.


“Các sản phẩm công nghệ không phải là thứ ảo thuật nào đó”, Manoush Zomorodi của chương trình phát thanh New Tech City bình luận, “Chỉ cần hiể một chút ít về việc các dòng mã lệnh làm việc như thế nào, các bạn sẽ giúp người dùng lựa chọn một cách chính xác hơn sản phẩm nào bởi các nhà phát triển luôn nhắm đến một cái đích cụ thể”.


Có điều, “vật cản” lớn nhất khiến các phóng viên công nghệ khó có thể tiếp cận được với những kĩ sư phát triển sản phẩm chính là các nhân viên PR của hãng. Họ được yêu cầu “nhại” lại lời của nhân viên PR rằng sản phẩm đó “tuyệt vời” thế nào mà thôi chứ không cần biết để làm ra “sự tuyệt vời” đó, các kĩ sư đã phải làm gì.



Theo nhà báo Ben Fischer của Thời báo kinh doanh New York (NBJ) thì một lí do nữa khiến các phóng viên công nghệ “mù tịt” về mặt kĩ thuật là vì họ luôn tin rằng người tiêu dùng sẽ không muốn tìm hiểu sâu hơn về sản phẩm. Hầu hết các phóng viên và cả nhà sản xuất chỉ chú ý đến khía cạnh kinh doanh mà không biết rằng sự minh bạch về mặt kĩ thuật sẽ giúp cho sản phẩm của họ trở nên cạnh tranh hơn. Đó cũng chính là lí do vì sao rất ít phóng viên công nghệ “biết đôi chút” về ngôn ngữ lập trình nên họ chỉ còn cách là phát ngôn lại theo hướng dẫn của phòng PR.


Để thay đổi điều này không hề khó như các phóng viên tưởng. Thay vì hỏi những câu hỏi chung chung về sản phẩm, họ hãy nên mạnh dạn chất vấn nhà sản xuất những câu hỏi kiểu như: Nhóm của ông/bà đã dùng công cụ gì để phát triển (thử nghiệm, mô phỏng, kiểm tra lỗi hay quản lí tác vụ…) sản phẩm này? Nguyên tắc tạo ra trải nghiệm người dùng của công ty là gì? Sản phẩm này đã sử dụng bao nhiêu mã nguồn mở? Chúng có đóng góp như thế nào đối với sản phẩm? Sau một đợt cập nhật lớn, bao nhiêu dòng mã lệnh (code) đã được thay đổi?....


Cale Weissman, một phóng viên của tờ Business Insider lại gợi ý rằng, các phóng viên công nghệ nên hỏi về quá trình lập kế hoạch trước khi nhà phát triển lập trình và họ đã gặp những lỗi (bug) gì trong quá trình đó..


“Tất nhiên, bạn có nhận được câu trả lời không và câu trả lời có thỏa đáng không lại là một vấn đề hoàn toàn khác”, Cale Weissman nói.


Ben Fischer lại nêu ý kiến, các phóng viên nên hỏi nhà sản xuất về “sự khác biệt về mặt kĩ thuật” của sản phẩm này so với các đối thủ cạnh tranh và hãng đặt ra những yêu cầu gì khi tìm kiếm một giám đốc công nghệ (CTO) cho dự án này.


Nếu các phóng viên có thể giải thích toàn bộ những sự “tuyệt vời” hay “khác biệt” của sản phẩm bằng một thứ ngôn ngữ đậm tính kĩ thuật những dễ hiểu đối với người dùng, chắc chắn họ sẽ nhận được sự tin tưởng cao hơn rất nhiều so với vô số những bài báo “ca tụng” khác.


Francis Tseng, một nhà phát triển đang làm việc cho Quỹ Knight Foundation Prototype, cho rằng có rất ít các phóng viên công nghệ có thể làm tốt việc này, “Chẳng có bài báo nào lọt vào mắt tôi được cả. Tất cả bọn họ chỉ biết nhại theo và nói đến khía cạnh kinh doanh. Các phóng viên luôn tin rằng rất khó để có được những thông tin kĩ thuật kiểu đó nhưng thực sự là hầu hết các kĩ sư phát triển sản phẩm đều có blog chính thức của mình. Tất nhiên, điều đó đòi hỏi phóng viên phải biết về ngôn ngữ lập trình”.


Có lẽ, theo ý của Francis Tseng thì muốn trở thành một phóng viên công nghệ thực thụ thì nhiều người phải bắt đầu đi học… lập trình.


Theo Infonet.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.