Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

TV Plasma có nguy cơ bị khai tử

TV Plasma có nguy cơ bị khai tử

Kiểu dáng thiết kế thô dày, tốn nhiều điện năng, TV Plasma ngày càng đuối sức trong cuộc đua trên thị trường TV thế giới.


Lượng TV Plasma tiêu thụ giảm mạnh khiến thị phần liên tục bị co hẹp. Đó là nguyên nhân khiến các hãng sản xuất TV hàng đầu thế giới tỏ ra không mặn mà, thậm chí còn tuyên bố rời bỏ phân khúc này, đẩy dòng TV Plasma đến nguy cơ có thể bị khai tử trong thời gian tới.



Theo báo cáo nghiên cứu thị trường của IHS iSuppli, lượng TV tiêu thụ toàn cầu năm 2013 ước đạt 226,7 triệu chiếc, giảm 5% so với năm năm 2012. Trong đó, dòng TV Plasma phải chấp nhận mức giảm mạnh nhất lên đến 27%. Như vậy, thị phần TV Plasma sẽ tiếp tục bị thu hẹp trong năm 2013, sau khi liên tục giảm mạnh còn 7,4% (năm 2011) và 6% (năm 2012).


Sự thất thế của TV Plasma đến từ nhiều nguyên nhân. Raymond Soneira - Chủ tịch của Công ty Phân tích Công nghệ màn hình DisplayMate - từng nhận định: Công nghệ Plasma có một số lợi thế so với LCD như độ tương phản cao, có các góc nhìn rộng hơn, màu sắc chính xác hơn và xử lí chuyển động tốt hơn. Nhưng với đa số người dùng không phải “dân kĩ thuật”, sự khác biệt không thật sự đáng kể. Thậm chí, giờ đây, dòng TV LED thế hệ mới cũng có thể làm được và còn làm tốt hơn. Trong khi đó, những ưu điểm của LCD như hình ảnh sáng hơn, nhẹ hơn và tiêu thụ ít năng lượng hơn lại dễ được người dùng nhận biết. Đó là chưa kể đến lợi thế về kiểu dáng và độ mỏng gần như không có đối thủ của dòng TV LED. Không chỉ có vậy, TV Plasma còn gặp phải lỗi “chết người” khi thường xảy ra hiện tượng lưu hình “burn-in”. Dù sau đó TV Plasma thế hệ mới đã khắc phục được điểm yếu trên, nhưng chưa thể xóa đi ấn tượng xấu này với người dùng.


Bên cạnh đó, nhiều người còn cho rằng công nghệ LCD mới hơn, nên sẽ tốt hơn. Dù trên thực tế, màn hình LCD xuất hiện trước thời điểm TV Plasma ra đời vài năm, nhưng LCD màn hình lớn được bán sau Plasma nên người dùng mới có quan niệm như vậy. Nhanh nhạy nắm bắt tâm lí của người dùng, nhiều nhà sản xuất TV danh tiếng như Samsung, LG, Sony... đã tập trung đầu tư vào phân khúc này. Nhờ đó, công nghệ LCD đã liên tục được cải tiến, làm lu mờ nhiều lợi thế của TV Plasma. Thêm nữa, việc TV LCD được sản xuất trên quy mô lớn cũng giúp cho giá bán ngày càng cạnh tranh hơn.


TV Plasma ngày càng bị “ghẻ lạnh” là nguyên nhân khiến Panasonic - hãng sản xuất TV Plasma hàng đầu thế giới - buộc phải tuyên bố sẽ rút khỏi phân khúc này kể từ tháng 4/2014. Điều đó chứng tỏ Panasonic không muốn tiếp tục cuộc phiêu lưu với dòng TV Plasma để rồi có thể phải đón nhận thêm khoản lỗ lên đến cả tỉ USD. Trước quyết định rút lui của Panasonic, Kevin Miller - người sáng lập TweakTV - cho rằng Samsung và LG có thể sẽ sớm đưa ra quyết định tương tự trong thời gian tới.


Tại thị trường Việt Nam, nơi mà người dùng coi trọng hình thức và đánh giá cao yếu tố tiết kiệm điện năng của các sản phẩm điện tử khi giá điện sinh hoạt ngày càng đắt đỏ do liên tục tăng giá trong nhiều năm qua, những nhược điểm của TV Plasma càng bị người dùng Việt săm soi, khiến dòng TV này dần vắng bóng trên các kệ hàng của các nhà phân phối.


Dạo qua các trung tâm, siêu thị điện máy lớn, không khó để có thể nhận thấy dòng TV LED, LCD đang chiếm ưu thế áp đảo, trong khi TV Plasma chỉ còn một số mẫu và gần như đồng loạt được gán nhãn “giảm giá sốc” hay “xả hàng” để giải phóng hàng tồn – một giai đoạn mà một công nghệ gần như phải trải qua khi đang dần đi đến cuối vòng đời của mình, khi lượng người quan tâm đến các mẫu TV Plasma này rất ít. Cùng giá bán 10,5 triệu đồng, LG LN 5110 kích thước 42 inch hấp dẫn hơn nhiều mẫu TV Plasma 43inch, độ phân giải HD Ready hỗ trợ kính 3D.


Nhận định về dòng TV Plasma - chuyên gia phân tích Colin Dixon, đồng thời là người sáng lập nScreenMedia - cho rằng: Khi lợi nhuận bị hao tổn, cũng có nghĩa công nghệ đó không còn kiếm ra tiền, thì dù có tốt mấy cũng không tránh khỏi phải thoái vị. Do đó, việc TV Plasma biến mất trên thị trường cũng là điều tất yếu.


Theo Sống Mới



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.