Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Người Nhật hết chuộng hàng công nghệ “Made in Japan”

Người Nhật hết chuộng hàng công nghệ “Made in Japan”

Người Nhật bắt đầu chuộng những hàng công nghệ Âu Mỹ thay vì các sản phẩm nội địa, và các công ty Nhật cũng đang vươn ra toàn cầu.



Trước kia người Nhật được biết đến như những người rất thích sử dụng hàng nội địa và ủng hộ hết mình cho các sản phẩm công nghệ “Made in Japan”. Mạng xã hội Mixi bỏ xa Facebook, dù Facebook đã đè bẹp hàng chục mạng xã hội địa phương để đạt hơn 1 tỉ người dùng. Hay điện thoại trượt của Panasonic, Fujitsu, NEC và các thương hiệu khác “dắt mũi” những iPhone hay Samsung Galaxy.


Thế nhưng, nay giờ đã khác, xu hướng cô lập về công nghệ (galapagos syndrome, theo cách gọi của WSJ) đang dần biết mất ở đất nước mặt trời mọc. Người Nhật tuy vẫn duy trì sở thích tiêu dùng khá khác biệt với Âu Mỹ, nhưng giờ đây họ đã bắt đầu chuộng những sản phẩm tới từ các công ty bên kia Tây Bán Cầu.


Smartphone và tablet


Apple có thể coi là một ví dụ điển hình về sự lên ngôi của các công ty ngoại ở Nhật. Vào tháng 9, hãng nghiên cứu Kantar ghi nhận Apple chiếm 34% thị phần di động và vẫn đang tiếp tục phát triển. Một vài chỉ số mới được Kantar lưu ý là iPhone 5s và iPhone 5c chiếm tới 76% lượng smartphone bán ra ở Nhật trong tháng 10 vừa rồi.


Bên cạnh đó, Android cũng tạo nên những ấn tượng mạnh ở Nhật. Docomo, nhà mạng hàng đầu Nhật vừa cho biết sẽ tập trung mạnh vào Android. Hãng mới ra mắt 10 thiết bị chạy hệ điều hành của Google, dù hãng vẫn đang phân phối iPhone cho Apple.


Một ông lớn khác của Mỹ gặt hái thành công ở Nhật là Amazon. Hãng thương mại điện tử này được biết đến nhiều ở Nhật bằng việc chiếm lĩnh trái tim người dùng Nhật ở mảng thiết bị đọc sách điện tử (e-reader). Dẫu cho trang thương mại điện tử hàng đầu của Nhật là Rakuten vừa mua lại nhà sản xuất e-reader Kobo, thì Kindle của Amazon cũng đang gây bão ở Nhật. Dịch vụ video theo yêu cầu Prime của Amazon đang được đón nhận nồng nhiệt ở Nhật. E-reader Kindle đang chiếm tới 38,3% thị phần tại Nhật, chỉ sau 4 tháng ra mắt.


Dịch vụ internet của phương Tây được ưa chuộng


Không chỉ thích thiết bị, người Nhật bắt đầu thích các dịch vụ trên internet được các công ty Âu Mỹ cung cấp.


Twitter đã nổi tiếng từ lâu ở Nhật, nhờ vào việc nó tập trung vào thiết bị di động và tiết kiệm thời gian hơn. Kỉ lục của Twitter về số lượng tin nhắn tweet trong cùng một thời điểm nằm ở một chương trình phim hoạt hình Nhật (anime). Kỉ lục này thiết lập vào đêm giao thừa 2012 - 2013 ở Nhật và Hàn Quốc với 33.388 tweet được post mỗi giây.


Trước đây Facebook cũng không được người Nhật ưa chuộng, nhưng nay thời thế đã đổi thay. Mạng xã hội lớn nhất hành tinh đã vượt qua trang Mixi và trở thành mạng xã hội số 1 ở Nhật. Facebook giờ đây là lựa chọn phổ biến cho người dùng ở quốc gia này và ngày càng trở thành một dịch vụ và nền tảng giá trị cho các công ty khởi nghiệp ở Nhật.


Sự “Mỹ hóa” của internet Nhật hiện nay là một trào lưu tân thời “ Hiện tại ở Nhật, các dịch vụ như Twitter, Facebook, Instagram đang trở nên phổ biến, trong khi đối thủ Nhật của chúng ngày càng lụi tàn.


Các lĩnh vực khác cũng đang chứng kiến sự vượt lên tương tự. Ở lĩnh vực thương mại điện tử, Amazon đã gặt hái rất nhiều thành tựu trong 5 năm qua. Và Google cũng rất thành công ở lĩnh vực tìm kiếm. Hiện giờ, chỉ có ở Nhật, Google mới chịu làm công cụ tìm kiếm cho trang chủ Yahoo, trang web nhiều người xem nhất tại Nhật”, Serkan Toto, một nhà nghiên cứu vấn đề công nghệ Nhật cho hay.


Công nghệ Nhật vươn ra toàn cầu


Nhưng sự việc không diễn ra theo một chiều xâm lấn từ phương Tây, các công ty công nghệ Nhật cũng đang vươn ra hoàn cầu một cách mạnh mẽ. Họ đang chứng minh cho thế giới thấy sản phẩm và các dịch vụ của họ có thể phát triển tốt ở nước ngoài.


Ảnh

Ứng dụng nhắn tin LINE vừa đạt hơn 300 triệu người dùng.



Ứng dụng tin nhắn Line, tuy thuộc sở hữu của công ty internet Hàn Quốc Naver, nhưng lại được phát triển và có đại bản doanh nằm ở Nhật là một ví dụ. Line hiện đã vượt mốc 300 triệu người dùng toàn cầu. Ứng dụng này hiện đang trở thành lựa chọn số 1 ở một số quốc gia châu Á như Thái Lan, Indonesia và vùng lãnh thổ Đài Loan. Trước đó, Line trở thành hiện tượng ở Nhật khi giúp các nạn nhân và thân quyến liên lạc với nhau sau đại thảm họa động đất và sóng thần năm 2011. Hiện tại, Line đang thể hiện ý đồ xâm chiếm Mỹ, Mỹ Latinh và châu Âu.


Nhà mạng khổng lồ Softbank cũng đang tổng tiến công ra hải ngoại. Hãng vừa mua lại nhà mạng lớn thứ tư Mỹ, Sprint; và mới đây nhất là động thái thâu tóm hãng sản xuất game nổi tiếng Supercell. Supercell, cha đẻ tựa game ăn khách Clash of Clans, nhận được tới 1,5 tỉ USD sau thương vụ này.


Dĩ nhiên là bên cạnh sự thành công luôn có bóng đen của thất bại. Nintendo không tạo được bất cứ ấn tượng nào ở lĩnh vực di động; còn DeNA và GREE, 2 công ty game giá trị hàng tỉ USD thì không thể nhân rộng thành công ở thị trường quốc nội ra thế giới. “Ở lĩnh vực game di động, DeNA và GREE, hai công ty Nhật mà nhiều người hi vọng có thể trở thành “Nintendo trên mobile” đang mất khách ngoại quốc, do sự bành trướng của hai kho ứng dụng App Store và Google Play”.


Những thay đổi này liệu có làm “thức tỉnh” các công ty Nhật? Điều này có thể là một sự lạc quan quá lớn. Tương tự, việc thị trường đầy tiềm năng như Nhật mở cửa hơn với nước ngoài là tin tốt lành với nhiều công ty ngoại quốc. Nhưng cũng nên biết rằng, để chiếm được trái tim người Nhật, các công ty ngoại phải giải rất nhiều bài toán.


Theo Genk/The Next Web



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.