Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Apple thu lợi nhuận cao tại thị trường Nhật Bản

Apple thu lợi nhuận cao tại thị trường Nhật Bản

Các sản phẩm của Apple đã chiếm tới 76% doanh số smartphone ở Nhật Bản trong tháng 10, sau khi ra mắt hai điện thoại iPhone 5s và 5c, hãng tin Bloomberg vừa cho biết sáng nay (29/11).



Theo Bloomberg, đây là nội dung trong tin nhắn trên tài khoản Twitter của hãng nghiên cứu thị trường Kantar Worldpanel ComTech. Ngoài ra, iPhone cũng đã chiếm tới 61% doanh số điện thoại của NTT Docomo, trong khi nhà mạng lớn nhất Nhật Bản này mới bắt đầu phân phối điện thoại iPhone từ cuối tháng 9 cho tới nay.


"Sự thực là iPhone bán rất chạy", Jun Ootori, một phát ngôn viên của NTT Docomo tại Tokyo, cho biết. Trước đó, nhà mạng này luôn từ chối phân phối iPhone, để tập trung vào các sản phẩm của Sony, Samsung và bảo vệ gian hàng trực tuyến của mình, trước sự cạnh tranh khốc liệt của iTunes đến từ hãng công nghệ Apple.


Sự tham gia của NTT DoCoMo đã khiến các nhà mạng khác như KDDI và SoftBank phải đối phó bằng cách hạ giá điện thoại iPhone. Timothy Arcuri, Giám đốc điều hành Cowen & Co ước tính Apple sẽ bán được 11 tới 12 triệu chiếc iPhone ở Nhật năm 2013, gần gấp đôi năm ngoái. Con số này năm tới có thể là 20 triệu.


Trước đó hồi đầu tháng này, tờ Wall Street Journal cũng có bài viết, trong đó nói rằng, Nhật Bản đã trở thành thị trường phát triển nhanh nhất của hãng công nghệ Apple chỉ trong vòng hai năm qua. Nhật cũng là thị trường mang lại cho Apple tỉ suất lợi nhuận cao nhất, và là nơi duy nhất Apple tăng lãi trong tài khóa vừa qua.


Doanh thu của hãng công nghệ Apple tại Nhật Bản đã tăng 27% lên 13,5 tỉ USD trong tài khóa 2013. Con số này tại Trung Quốc là 12,8% và khu vực châu Á - Thái Bình Dương là 4,1%. Tỉ suất lợi nhuận trước lãi và thuế của Apple tại Nhật cũng vượt 40% trong năm tài khóa vừa rồi, so với 35% ở các thị trường còn lại.


Trên thực tế, iPhone cũng là dòng smartphone bán chạy nhất Nhật Bản, với 37% thị phần trong quý 2 và 3, hãng nghiên cứu MM Research Institute cho biết. Trong khi đó, tỉ lệ này tại Mỹ là 36%, theo hãng Kantar. iPad cũng chiếm hơn 50% thị phần máy tính bảng tại Nhật trong năm tài khóa 2012, MM Research cho biết.


Sở dĩ iPhone bán chạy ở Nhật Bản là nhờ ngân sách quảng cáo lớn và tiền trợ giá dồi dào từ các nhà mạng di động. Chiếc điện thoại này đã đáp ứng tốt nhu cầu cao của người tiêu dùng Nhật đối với các sản phẩm đồ hiệu, tương tự như cơn sốt từng xảy ra ở nước này với sản phẩm túi xách Louis Vuitton, khăn quàng Burberry.


Theo hãng tin tài chính Bloomberg, tính tới 10 giờ 34 phút sáng nay (29/11) trên thị trường chứng khoán Tokyo, giá cổ phiếu của NTT Docomo tăng được 0,5% lên 1.640 Yên/cổ phiếu, trong khi cổ phiếu của SoftBank hạ 1,4% xuống 8.310 Yên/cổ phiếu. Cổ phiếu KDDI cũng giảm mạnh 1,5% xuống còn 6.460 Yên/cổ phiếu.


Bloomberg cho biết thêm, trong tháng 10 vừa qua, nhà mạng NTT Docomo chiếm 45,7% thuê bao di động ở Nhật Bản, trong khi nhà mạng KDDI là 29%, nhà mạng SoftBank là 25,3%. Trước đó, bản báo cáo từ MM Research cho biết rằng, tới cuối tháng 9 năm nay, Nhật Bản có khoảng 50,15 triệu thuê bao smartphone.


Theo VnEconomy



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.