Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013

Thường xuyên chụp ảnh có thể làm ảnh hưởng đến trí nhớ

Thường xuyên chụp ảnh có thể làm ảnh hưởng đến trí nhớ

Chụp ảnh tại các sự kiện quan trọng như sinh nhật hay đám cưới… là điều quen thuộc và bình thường, tuy nhiên theo các nhà nghiên cứu nếu thường xuyên thực hiện điều này có thể làm ảnh hưởng đến trí nhớ của người chụp ảnh, đặc biệt ngay với sự kiện đã diễn ra.


Chụp ảnh các khoảnh khắc đáng nhớ tại những dịp lễ quan trọng như thổi nến hay cắt bánh kem trong dịp sinh nhật hay đám cưới…đã trở thành một hành động tự nhiên và dường như phải có, tuy nhiên theo nghiên cứu của các nhà khoa học, điều này lại làm tổn hại đến khả năng thực sự của người chụp để ghi nhớ các khoảnh khắc đã xảy ra.


Ảnh

Chụp ảnh tại các sự kiện đáng nhớ sẽ vô tình khiến người chụp khó ghi nhớ các khoảnh khắc xảy ra.



Theo một nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà khoa học thuộc trường đại học Fairfield (bang Connecticut, Mỹ) đã chỉ ra rằng khi sử dụng máy ảnh để chụp ảnh khoảnh khắc đáng nhớ, bản thân người chụp lại không hoàn toàn tập trung và ghi nhớ các khoảnh khắc xảy ra ngay trước mắt họ và họ sẽ không thể ghi nhớ về khoảnh khắc đó.


“Mọi người thường xuyên sử dụng máy ảnh để ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ, nhưng ở trạng thái vô thức để nắm bắt thời điểm, đến mức họ dường như quên mất điều gì thực sự đang diễn ra trước mắt”, Tiến sĩ Linda Henkel, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết.


Nhóm nghiên cứu đã tiến hành một thí nghiệm tại một viện bảo tàng để chứng minh rằng nếu sử dụng máy ảnh sẽ làm ảnh hưởng đến kí ức mà họ đã thực sự nhìn thấy. Một nhóm các sinh viên tình nguyện được dẫn đến thăm bảo tàng nghệ thuật ở bang Connecticut, với một nhóm người được yêu cầu chụp lại ảnh và nhóm còn lại được yêu cầu ghi nhớ bằng đôi mắt và trí não của mình.


Một cuộc thử nghiệm trí nhớ được tiến hành vào ngày hôm sau. Kết quả chỉ ra rằng những người sử dụng máy ảnh để chụp lại các đối tượng trong việc bảo tàng có ít kí ức và ghi nhớ ít hơn về các đối tượng và hình ảnh bên trong viện bảo tàng, so với nhóm sinh viên chỉ tham quan viện bảo tàng bằng đôi mắt của mình.


“Khi con người quá phụ thuộc vào công nghệ để ghi lại các khoảnh khắc, như sử dụng máy ảnh hay máy quay để ghi lại các sự kiện diễn ra, họ sẽ không hoàn toàn tập trung vào những gì đang diễn ra trước mắt mình và điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến trí nhớ của họ”, Tiến sĩ Henkel cho biết.


Hiện nhóm nghiên cứu của tiếng sĩ Henkel đang tiếp tục tìm hiểu xem nội dung của các hình ảnh đã chụp có ảnh hưởng như thế nào đến trí nhớ người chụp ảnh khi họ xem lại các bức ảnh của mình, đồng thời tìm hiểu xem việc quá chăm chú chụp ảnh sẽ làm ảnh hưởng thế nào đến kí ức của người chụp.


Trước khi nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học được công bố, nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Beyonce, Bjork… đã yêu cầu cấm khán giả sử dụng máy ảnh và camera trong các buổi biểu diễn của họ vì lo ngại khán giả không tập trung vào những gì đang diễn ra trên sân khấu. Có thể bản thân các nghệ sĩ này cũng đã tự nhận thức được kí ức về buổi biểu diễn sẽ bị ảnh hưởng đến khán giả tập trung vào camera/máy quay phim thay vì tập trung lên sân khấu.


Theo Dân Trí



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.