Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Đại gia viễn thông than thở chuyện làm ăn

Đại gia viễn thông than thở chuyện làm ăn

Mặc dù đều đạt doanh thu và lợi nhuận vượt 100% kế hoạch, nhưng lãnh đạo các nhà mạng lớn cho rằng, kinh doanh viễn thông đang ngày càng khó. Điều này được thể hiện rõ nhất qua việc tăng trưởng thuê bao và tốc độ tăng trưởng doanh thu chậm lại.



2013 có thể được coi là năm Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) có số thuê bao di động thực tăng trưởng… giật lùi lớn nhất trong lịch sử tập đoàn này.


Cụ thể, VNPT có lượng tổng thuê bao điện thoại thực tăng (phát triển mới - cắt giảm) là -11,3 triệu thuê bao, trong đó thuê bao cố định (vô tuyến + hữu tuyến) giảm 500 ngàn thuê bao; thuê bao di động giảm tới 10,8 triệu thuê bao. Tổng số thuê bao điện thoại (phát sinh cước) trên mạng đến cuối năm 2013 đạt 40,4 triệu thuê bao, bằng 78% so với cuối năm 2012. Dịch vụ băng rộng của VNPT có vẻ khá khẩm hơn, khi tổng số thuê bao băng rộng trên mạng vẫn dự kiến đến cuối năm 2013 đạt 2,7 triệu thuê bao, bằng 112% so với cuối năm 2012.


Ngược lại với VNPT, đối thủ lớn nhất là Viettel lại có số thuê bao di động tăng trưởng thực dương, dù con số này cũng rất ít ỏi so với các năm trước.Theo báo cáo, thuê bao điện thoại lũy kế toàn mạng của Viettel là 54,25 triệu thuê bao. Tổng thuê bao tăng thêm trong năm 2013 là 1,61 triệu thuê bao, trong đó, thuê bao di động tăng 1,81 triệu thuê bao; thuê bao cố định (vô tuyến + hữu tuyến) giảm 273,3 nghìn thuê bao; thuê bao 3G tăng gần 2,15 triệu thuê bao; thuê bao băng rộng và Inetrnet tăng 43,93 nghìn thuê bao.


Dù vậy, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó tổng giám đốc Viettel vẫn cho rằng, 2013 tiếp tục là một năm khó khăn đối với ngành viễn thông và là năm thứ 3 liên tiếp tốc độ tăng trưởng viễn thông chậm lại, đối với Viettel chỉ còn 15%, tăng trưởng chậm hơn từ 2 - 3 lần so với những năm trước đó.


Theo ông Hùng, do những tác động khó khăn của nền kinh tế, sự bão hòa của điện thoại di động, sự suy giảm của điện thoại cố định đã khiến tốc độ doanh thu của Viettel tăng trưởng chậm hơn.


Ngoài ra, một trong những bước cản đà phát triển của Viettel là sự phát triển của các dịch vụ mới, trong đó có dịch vụ thoại, nhắn tin miễn phí qua Internet/3G (OTT), mà theo ông Hùng là đang làm xói mòn doanh thu viễn thông và đang là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp viễn thông.


"Những thách thức trên chính là động lực để các doanh nghiệp viễn thông phải cải cách, thay đổi chính mình để tìm những mô hình tăng trưởng mới”, vị Phó tổng giám đốc Viettel nhìn nhận.


Với VNPT, mặc dù lợi nhuận trong năm 2013 của tập đoàn tăng 4000 tỉ đồng so với năm 2012, nhưng trong đó có tới 1.000 tỉ đồng là do tiết kiệm, còn lại 1500 tỉ đồng là điều chỉnh của Kiểm toán Nhà nước đối với việc hạch toán doanh thu giữa các đơn vị trong VNPT, và 1500 tỉ đồng là từ việc phát triển các dịch vụ di động và băng rộng.


Ông Trần Mạnh Hùng cho biết, trong năm 2013, mạng VinaPhone có tốc độ tăng trưởng tốt với tốc độ tăng trưởng là 8%, và tốc độ tăng trưởng doanh thu mạnh hơn cả MobiFone. Doanh thu của MobiFone tăng không đáng kể. Dù vậy, doanh thu cụ thể của 2 nhà mạng thuộc VNPT không được ông Hùng công bố.


Phó tổng giám đốc Viettel Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, viễn thông đã đến lúc phải chuyển từ thoại, nhắn tin sang đến đa dạng các dịch vụ. Trong đó, với Viettel, vị này cho biết, trong năm 2014, Viettel sẽ chuyển dịch từ di động sang di động băng rộng với số thuê bao 3G dự kiến kế hoạch tăng gấp đôi; chuyển dịch từ di động sang cố định băng rộng với việc đầu tư vào băng rộng cố định cáp quang; chuyển dịch từ thoại sang các dịch vụ data, các dịch vụ viễn thông kết hợp với công nghệ thông tin.


”Viettel sẽ hướng đến dịch vụ thoại, nhắn tin sẽ chỉ còn chiếm 40% tổng doanh thu của toàn tập đoàn”, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.


Theo VnEconomy



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.