Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

Châu Phi sắp “lâm nguy” vì các dự án viễn thông của Trung Quốc?

Châu Phi sắp “lâm nguy” vì các dự án viễn thông của Trung Quốc?

Tạp chí "Quan hệ Quốc tế và An ninh" cho rằng, không phải ngẫu nhiên mà Mỹ, Anh, Australia đều đã cấm các doanh nghiệp viễn thông Trung Quốc trong các dự án quan trọng và châu Phi cần "rất cảnh giác".



Hồi tháng 8/2013, sự kiện Ethiopia kí kết với Tập đoàn viễn thông ZTE của Trung Quốc một thỏa thuận thiết lập mạng băng thông rộng trị giá 800 triệu USD một lần nữa dấy lên mối quan ngại về hoạt động gián điệp kinh tế của Trung Quốc tại châu Phi.


Theo thỏa thuận này, ZTE sẽ xây dựng một mạng băng thông rộng 4G tại thủ đô Addis Ababa và mạng 3G trên khắp phần còn lại của đất nước. Thỏa thuận với ZTE nằm trong giai đoạn cuối của dự án đầu tư trị giá 1,6 tỉ USD chung giữa ZTE và Công ty Huawei Technologies theo tỉ lệ 50/50.


Từ góc độ của chính phủ Ethiopia, thỏa thuận đạt được với ZTE và Huawei có thể giống như một "món quà" nếu xét đến điều kiện cho vay lãi suất thấp, giá cả cạnh tranh, hệ thống quản lí đầy đủ và tiềm năng cung cấp kết nối chi phí thấp cho người dân. Tuy nhiên, các thông tin này xuất hiện đúng vào lúc giới chức Mỹ liên tiếp phát đi những cảnh báo tin rằng Trung Quốc đang phát triển một mạng lưới do thám nguy hiểm tại châu Phi.



Trả lời phỏng vấn của Tạp chí "Tài chính Australia" hồi tháng 7/2013, ông Micheal Hayden, cựu Giám đốc Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), đã cáo buộc Trung Quốc tiến hành hàng loạt hoạt động gián điệp với phương Tây.


"Chí ít thì Huawei cũng sẽ chia sẻ với giới chức Trung Quốc về những thông tin sâu rộng liên quan đến các hệ thống viễn thông nước ngoài mà Công ty này tham gia", Hayden cho biết.


Những cáo buộc xung quanh việc Huawei Technologies vi phạm an ninh mạng nổi lên từ cuối tháng 11 năm ngoái, sau khi các cơ quan tình báo và các Công ty an ninh phát hiện thấy các cuộc tấn công các trang web xuất phát từ Trung Quốc. Tại Mỹ, phần lớn các hoạt động của Huawei Technologies đã bị cấm, và hiện cả Huawei lẫn ZTE đều đang bị điều tra về cáo buộc thâm nhập các hệ thống của Mỹ và đánh cắp tài sản trí tuệ.


Năm 2008, Huawei Technologies và đối tác Bain Capital đã phải từ bỏ việc đấu thầu một dự án cung cấp thiết bị máy tính do có những quan ngại về bảo mật, và năm ngoái họ đã không được phép mua bằng sáng chế từ một hãng sản xuất máy chủ của Mỹ. Năm 2012, Bộ Thương mại Mỹ đã cấm Huawei tham gia đấu thầu xây dựng một mạng lưới khẩn cấp toàn quốc cũng vì lí do an ninh. Cũng trong năm 2012, Australia cũng đã cấm công ty này tham gia đấu thầu dự án thiết lập mạng băng thông rộng cáp quang trên toàn quốc với lí do "lợi ích quốc gia". Mặc dù Huawei Technologies đã cung cấp các thiết bị mạng cho ngành viễn thông Anh từ năm 2005, Văn phòng Nội các Anh đã tuyên bố hồi tháng 7 năm nay rằng họ sẽ rà soát lại Trung tâm đánh giá an ninh mạng của công ty này, được gọi là Banbury Cell, do nhận thấy mối liên hệ giữa Công ty này và Chính phủ Trung Quốc “thiếu minh bạch”.


“Những lo ngại của Mỹ về hoạt động gián điệp một phần dựa trên những báo cáo tình báo cho rằng các thiết bị định tuyến do Công ty Huawei Technologies Ltd cung cấp cho khách hàng Mỹ đã "vận hành một cách kì quặc", ví dụ như các bộ định tuyến tự động bật mở giữa đêm khuya và truyền với các gói dữ liệu lớn về Trung Quốc. Các lo ngại khác liên quan đến khả năng tin tặc Trung Quốc có thể che giấu các cuộc tấn công của chúng bằng cách thay đổi lộ trình qua ngả châu Phi. Hơn thế, các tài liệu nội bộ của Huawei Technologies mà các nhà chức trách Mỹ thu được từ một cựu nhân viên của công ty này cho thấy Huawei còn cung cấp "dịch vụ mạng đặc biệt" cho một đơn vị chiến tranh mạng thuộc quân đội Trung Quốc”, tờ tạp chí "Quan hệ Quốc tế và An ninh" viết.



Với việc Huawei Technologies tiếp tục phát triển mạnh trên khắp châu Phi thông qua việc bán điện thoại thông minh giá rẻ, được hỗ trợ bởi hạ tầng viễn thông chi phí thấp của ZTE, các nước châu Phi nên cảnh giác với "món quà" từ Trung Quốc, tạp chí này nhấn mạnh.


Do Trung Quốc không phải là quốc gia duy nhất có khả năng làm gián điệp thông qua các mạng viễn thông, các nhà lãnh đạo châu lục nên cẩn trọng khi xem xét lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ tiềm năng. Một cách mà các quốc gia châu Phi có thể dựa vào để giảm thiểu rủi ro từ hoạt động gián điệp kinh tế là sử dụng kiểm toán độc lập đối với phần cứng cũng như phần mềm của nhà cung cấp công nghệ. Thông qua việc quản lí độc lập và sử dụng các kiểm toán viên bên ngoài, các nước châu Phi có thể tin tưởng rằng các thiết bị và mạng lưới do nước ngoài cung cấp cho họ là an toàn.


Theo Infonet



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.