Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

Bi hài chuyện đăng kí thuê bao trả trước

Bi hài chuyện đăng kí thuê bao trả trước

Lợi dụng “kẽ hở” chưa có chứng minh nhân dân điện tử để đối soát thông tin, nhiều thuê bao trả trước đã đăng kí với tên gọi rất hài hước nhưng vẫn được kích hoạt. Bên cạnh đó, có những thuê bao đã trên 100 tuổi.



90% cơ sở vi phạm


Tại Công ty Dịch vụ viễn thông (VinaPhone), đoàn thanh tra đã bắt gặp những cái tên không có thực như: aas fsadfas, adfs, AADS, asd jij… Còn tại Tập đoàn Viettel, có chủ thuê bao mang tên: Khong Chinh Chu, A B C, Avio Việt Nam… nhưng vẫn được cung cấp dịch vụ.


“Thậm chí, nhiều số thuê bao có thông tin khác nhau nhưng lại sử dụng chung một ảnh chứng minh nhân dân, lại có thuê bao trên 100 tuổi”- ông ông Đỗ Hữu Trí, Phó Chánh Thanh tra Bộ TT&TT cho hay.


Trong khi đó, doanh nghiệp viễn thông “chiếu dưới” như Công ty Viễn thông Hà Nội (Hanoi Telecom) cũng sẵn sàng chấp nhận đăng kí thông tin thuê bao với tên gọi: điểm bán sim, simcard, De Men Mobile, Sim Card Chi Huong hay CH Binh Mobile…


Nhằm siết lại việc thuê bao trả trước tràn lan, Bộ TT&TT đã ban hành Thông tư 04 (có hiệu lực từ 1-6-2012) về quản lí thông tin thuê bao di động trả trước. Tuy nhiên, dường như các doanh nghiệp và hệ thống đại lí được ủy quyền không thực hiện nghiêm quy định này. Kiểm tra tại các doanh nghiệp và 29.377 điểm đăng kí thông tin thuê bao di động trên cả nước, đoàn thanh tra gặp không ít thuê bao không có ảnh chứng minh nhân dân, hộ chiếu. Nhiều ảnh chứng minh nhân dân bị nhòe, không thể đọc được; ảnh chứng minh bị sửa bởi photoshop, cùng ảnh chứng minh nhưng bị ghép các ảnh chân dung khác.


Đại lí còn “nhờn luật” đến mức thay ảnh chứng minh thư lưu trên hệ thống bằng ảnh người uống bia, em bé hoặc phong cảnh… Có nơi, chứng minh nhân dân đã hết hạn nhưng vẫn được chấp nhận đứng tên thuê bao.


Ông Đỗ Hữu Trí cho biết, qua kiểm tra các trung tâm, điểm giao dịch thuộc doanh nghiệp di động về quy trình tiếp nhận, đăng kí, lưu giữ thông tin thuê bao, tỉ lệ vi phạm rất cao. Có trung tâm có tỉ lệ đăng kí sai thông tin đến 88%. Tại các đại lí, điểm đăng kí thông tin thuê bao thì có tới 90% số các điểm được thanh tra đều vi phạm về quy trình đăng kí thông tin.


Tội phạm dễ lợi dụng


Theo Thanh tra Bộ TT&TT, chỉ trong tháng 11 và 12/2012, mạng di động VinaPhone đã có gần 7,6 triệu thuê bao đăng kí mới; Viettel là hơn 11,5 triệu thuê bao và MobiFone là hơn 18 triệu thuê bao. Số lượng thuê bao tăng ồ ạt một phần nói lên sự dễ dãi trong khâu đăng kí thông tin thuê bao của doanh nghiệp.


Trên thực tế, những năm gần đây, thị trường viễn thông Việt Nam diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà mạng trong việc giành thị phần. Đến tháng 10/2013, Việt Nam có tổng số 120.585.695 thuê bao di động, tức trung bình mỗi người sở hữu 1,3 sim điện thoại di động (không phân biệt độ tuổi khách hàng), chứng tỏ sẽ có nhiều thuê bao bị chồng chéo thông tin, chưa kể đến độ chính xác của thông tin. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều cá nhân lợi dụng danh nghĩa là tổ chức, doanh nghiệp để đứng tên sở hữu hàng chục nghìn thuê bao, sử dụng sim trả trước làm công cụ để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như đe dọa, quấy rối, lừa đảo, trộm cắp cước viễn thông quốc tế, phát tán tin nhắn rác… Những vi phạm này đến nay cơ quan quản lí cũng chưa thể ngăn chặn hữu hiệu được.


Kiến nghị với Bộ TT&TT, ông Đỗ Hữu Trí nhấn mạnh vai trò của việc khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về chứng minh nhân dân thống nhất trong cả nước, giúp việc quản lí thuê bao trả trước chặt chẽ hơn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần tự nâng cao ý thức chấn chỉnh hoạt động của thuê bao trả trước. Công tác thanh tra, kiểm tra cũng cần được tiến hành thường xuyên, liên tục để tránh tình trạng “bắt cóc bỏ đĩa”.


Theo An Ninh Thủ Đô



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.