Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

Mua sắm online: May nhờ rủi chịu

Mua sắm online: May nhờ rủi chịu

Vào Google tìm “Shop online” bạn sẽ nhận được 2,3 tỉ kết quả. Điều này cho thấy kinh doanh, giao dịch online trong lĩnh vực thương mại ngày càng tăng nhanh. Tuy nhiên, mua sắm online (MSOL) đang xảy ra nhiều bất cập.



Mua hàng online: Nhiều rủi ro


Trong vòng 10 năm nay, loại hình MSOL tăng trưởng cực mạnh. Theo Bộ Công Thương, ước tính doanh số thương mại điện tử tính riêng cho thị trường tiêu dùng của Việt Nam năm 2012 đạt 600 triệu USD, với tốc độ phát triển như hiện nay, dự báo đến năm 2015 doanh số thương mại điện tử (TMĐT) của Việt Nam sẽ đạt trên dưới 4 tỉ USD.


Với ưu điểm là nhanh chóng, thuận tiện, chi phí thấp nên loại hình MSOL ngày càng được giới trẻ ưa chuộng sử dụng. Việc MSOL có nhiều thuận lợi như nhanh chóng, giao hàng tận nơi, không mất thời gian đi lại…nhiều người tiêu dùng lựa chọn kênh này để mua sắm. Tuy nhiên, hình thức mua sắm này đang tiềm ẩn nhiều rủi ro về tài chính, chất lượng sản phẩm, về bảo mật thông tin từ sự gian lận của người kinh doanh.


Chị Hoa (ấp Hưng Lân, xã Bà Điểm, Huyện Hóc Môn, TP HCM) cho hay, do mới sinh con nhỏ và phải đi làm, chị đã chọn MSOL cho tiện. Song hình thức này có nhược điểm là sản phẩm mua không như hình ảnh, quảng cáo trên shop.


Không chỉ mua phải hàng kém chất lượng, người tiêu dùng còn gặp không ít trường hợp lừa đảo. Anh Lường Hữu Toán (Nguyễn Sơn, Q.Tân Phú – TPHCM) kể : “Là dân công trình nay đây mai đó nên mình không có thời gian rảnh. Chuẩn bị tới sinh nhật người yêu, tôi mua chiếc đồng hồ trên một website. Cửa hàng yêu cầu tôi gửi tiền trước rồi gửi sản phẩm. Không nghi ngờ, tôi chuyển 1 triệu cho họ. Nhưng tới hạn giao hàng, tôi vẫn không nhận được. Lên trang website phản ánh thì không có phản hồi lại”.


Chủ cửa hàng buôn bán oline tên Hường (Lê Trọng Tấn - Bình Hưng Hòa - Bình Tân - TP HCM) tiết lộ, hàng hóa trên mạng đủ kiểu, đủ loại, hàng có chất lượng thì ít mà hàng trôi nổi thì nhiều. Người bán và người mua không gặp nhau, chủ yếu giao hàng gián tiếp nên cũng không cần quan tâm nhiều, cứ bán cho ai được thì bán thôi.


Mua bán online người tiêu dùng dường như không được đảm bảo quyền lợi dành cho mình. Bởi thực chất, khi mua hàng qua mạng, đa phần người mua đều thực hiện thanh toán trước rồi sau đó lấy hàng hoặc nếu có sẽ thanh toán khi lấy hàng. Khi không ưng ý với sản phẩm đã mua thì chỉ được đổi lại hàng mà không có quyền từ chối trả hàng lấy lại tiền đã thanh toán.


Siết chặt quản lí kinh doanh online


Để bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, năm 2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2013/NĐ-CP và sau đó là Thông tư 12/2013/NĐ-CP về quản lí thương mại điện tử. Các văn bản được ban hành nhằm thiết lập hành lang pháp lí cho các giao dịch theo hướng tiện ích, minh bạch, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.


Theo Cục Thương mại Điện tử và Công nghệ Thông Tin (Bộ Công Thương), tính đến ngày 24/5 mới chỉ có gần 2000 doanh nghiệp sở hữu website thương mại điện tử bán hàng hoàn tất thủ tục thông báo trên trang web online.gov.vn. Tuy có 600 tên miền/website đã đăng kí trên cổng quản lí hoạt động thương mại điện tử này nhưng chỉ có chưa đến 200 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục đăng kí website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử.


Tại TP HCM, Sở Công Thương TPHCM cho biết, tính đến hết tháng 3/2014 có 86.000 website thương mại điện tử hoạt động. Như vậy, việc đăng kí thông tin trên của các doanh nghiệp còn hạn chế. Số lượng đăng kí còn quá nhỏ so với số lượng các website thương mại điện tử đang hoạt động hiện nay.


“Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có website thực hiện việc mua bán, trao đổi, kinh doanh chưa biết đến quy định phải thông báo hoặc đăng ki theo nghị định 52. Do vậy, trong thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ thực hiện các biện pháp tuyên truyền đến các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp biết nhưng không thực hiện sẽ có những biện pháp xử lí như phạt tiền, khóa tài khoản. Tại Cổng thông tin quản lí hoạt động thương mại điện tử www.online.gov.vn đã đưa ra các wedsite có hành vi vi phạm nên người tiêu dùng có thể vào đây kiểm tra để loại những website lừa đảo”, Bà Nguyễn Thị Hạnh - Trưởng văn phòng đại diện Cục Thương Mại điện tử tại TP HCM - cho biết.


Theo Báo Công Thương



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.