Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Hacker Trung Quốc ăn trộm bí mật gì từ Mỹ?

Hacker Trung Quốc ăn trộm bí mật gì từ Mỹ?

Tuần trước, chính phủ Mỹ đã tạo sóng dư luận khi truy nã 5 quan chức quân đội Trung Quốc về tội do thám và đánh cắp bí mật thương mại của doanh nghiệp Mỹ. Căng thẳng leo thang khi Bắc Kinh phản ứng dữ dội trước cáo trạng này.



Tuy nhiên, theo tạp chí uy tín Time của Anh, nếu những cáo buộc từ phía Mỹ là chính xác thì rõ ràng, Trung Quốc đang để mắt tới những doanh nghiệp cốt yếu nhất, tinh hoa nhất của Mỹ. Các nạn nhân bị tấn công đều là doanh nghiệp đại gia như U.S.Steel, hãng sản xuất thép lớn nhất và lâu đời nhất nước này; Alcoa, hãng sản xuất nhôm aluminum lớn thứ ba thế giới, Westinghouse Electrical Company, một trong những hãng phát triển vũ khí hạt nhân hàng đầu thế giới, SolarWorld AG, một cái tên đi đầu về công nghệ mặt trời hay United Steelworkers, một trong những liên đoàn lao động uy tín nhất nước Mỹ.


Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, như thường lệ, tuyên bố những cáo buộc này là vô căn cứ, do Mỹ dựng lên để gây căng thẳng giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, Bộ Tư Pháp Mỹ tỏ ra rất kiên quyết.


Câu hỏi lớn đặt ra lúc này là chính xác thì Mỹ cáo buộc Trung Quốc lấy cắp những thông tin gì? Tầm quan trọng của những thông tin đó đến đâu?


1. Công nghệ năng lượng mặt trời


Theo cáo trạng của Mỹ, các hacker đã đánh cắp nhiều sáng chế công nghệ liên quan đến tấm năng lượng mặt trời và quy trình sản xuất từ SolarWorld AG, cho phép các nhà máy sản xuất tấm mặt trời Trung Quốc có thể hớt tay trên những kết quả nghiên cứu mà các nhà khoa học Mỹ và Đức phải mất nhiều năm mới gặt được thành quả. Bộ Tư pháp Mỹ tin rằng hacker Web Xinyu đã đánh cắp hàng ngàn email và file cá nhân từ tài khoản của 3 quan chức cấp cao của SolarWorld trong năm 2012.


Không chỉ giúp các công ty Trung Quốc tiếp cận được với công nghệ Mỹ, những thông tin này còn cho phép doanh nghiệp Trung Quốc đối phó với các nhà làm luật của Mỹ. "Họ sẽ có lợi thế cạnh tranh rất không công bằng từ những dữ liệu nhạy cảm lấy cắp được", ông Ben Santarris, Giám đốc Chiến lược của SolarWorld AG phân tích trên Time.


2. Công nghệ nhà máy điện hạt nhân


Bộ Tư pháp Mỹ tin rằng hacker Trung Quốc cũng đánh cắp công nghệ hạt nhân của Westinghouse Electric Company, một công ty điện lực có trụ sở tại Pennsylvania đang thương thảo để chuyển giao công nghệ cho một doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc. Hacker Sun Kailing bị cáo buộc đã truy cập vào hệ thống máy tính của Westinghouse, đánh cắp thông số kĩ thuật và thiết kế của đường dẫn, trụ đỡ, cho phép các đối thủ Trung Quốc xây dựng nên những nhà máy điện hạt nhân đẳng cấp thế giới mà không cần phải tự mình nghiên cứu, mày mò công nghệ.


3. Thông tin nội bộ về Chiến lược kinh doanh


Đợt tấn công nhằm vào Westinghouse bắt đầu từ năm 2010, kéo dài đến hết năm 2011 và thậm chí còn "mò" được tận đến Tổng Giám đốc của công ty. Một số email bị đánh cắp có chứa thông tin về chiến lược kinh doanh của công ty điện hạt nhân này đối với đối tác Trung Quốc.


Theo các chuyên gia, đây là một chiến lược hành động mà hacker Trung Quốc từng áp dụng nhiều lần trước đó, nhằm tạo ra lợi thế cho phía doanh nghiệp Trung Quốc trong các cuộc đàm phán. "Nếu như bạn có khả năng đi vòng quanh bàn, biết được đối thủ của mình có quân bài nào, đặt cược ra sao thì hiển nhiên, bạn sẽ có cơ hội để đặt cược cao hơn họ. Đấy chính xác là những gì mà hacker Trung Quốc đã làm trong thế giới ảo", ông George Kurtz, Tổng Giám đốc CrowdStrike, một hãng bảo mật tư nhân chuyên theo dõi hoạt động của các hacker "có sự chống lưng của chính phủ Trung Quốc" bình luận.


4. Những dữ liệu cho phép Trung Quốc qua mặt các nhà làm luật của Mỹ


Các doanh nghiệp Mỹ, nhất là trong lĩnh vực sản xuất và công nghiệp nặng, luôn phải đối mặt với tình trạng hàng nhập khẩu Trung Quốc tràn ngập thị trường. Rất nhiều hàng trong số đó được nhập khẩu lách luật với mức giá rẻ hơn trung bình thị trường. U.S.Steel, hãng thép lớn nhất nước Mỹ, đã nhiều lần đệ đơn kiện thương mại để kêu gọi áp dụng hàng rào thuế quan và bảo vệ thị trường cho các doanh nghiệp làm ăn chính đáng.


Đầu năm 2010, ngay khi U.S.Steel tham gia vào 2 cuộc tranh luận thương mại với Trung Quốc về tình trạng nhập khẩu thép thiếu công bằng nói trên, Sun Kailing đã gửi đi một email phishing có nhúng mã độc bên trong. Rất nhiều nhân viên U.S.Steel sau khi nhận email đã mở ra và bị mã độc xâm nhập trái phép vào máy tính mà không hề hay biết. Thậm chí, theo Bộ Tư pháp Mỹ, Kailing còn vào được cả máy tính của Tổng giám đốc U.S.Steel khi ấy là ông John Surma. Nhờ đó, hacker này đã nắm trong tay các kế hoạch pháp kí của phía Mỹ.


Tương tự, United Steelworkers, một nghiệp đoàn lớn của Mỹ cũng bị hack hệ thống. Rất nhiều email đã bị đánh cắp, từ tài khoản nhân viên cho tới Chủ tịch, với cả các thông tin nhạy cảm về chiến lược hay thảo luận nội bộ xung quanh việc nên ngăn cản hàng nhập khẩu Trung Quốc trái phép kiểu gì.


Tuy nhiên, tất cả những vụ việc nói trên chỉ mới là phần nổi của tảng băng, các chuyên gia khuyến cáo. Hacker của Nga, Trung Quốc và Iran được cho là đã nhiều lần tấn công vào nền kinh tế Mỹ, vơ vét các bằng sở hữu trí tuệ đáng giá và do thám hợp đồng của doanh nghiệp Mỹ. "Các doanh nghiệp trong danh sách Fortune 1000 đều là mục tiêu của chúng, dưới dạng thức này hoặc dạng thức khác", ông Kurtz cho biết. "Nói cách khác, chỉ có 2 nhóm công ty mà thôi: Một nhóm biết mình đã bị tấn công và nhóm còn lại chưa phát hiện ra thực tế đó mà thôi".


Theo VietnamNet



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.