Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

SCTV kinh doanh truyền hình “lậu”, lừa dối khách hàng?

SCTV kinh doanh truyền hình “lậu”, lừa dối khách hàng?

SCTV sẽ phải ngừng truyền dẫn tín hiệu truyền hình analog từ 1/8 tới đây.



Tăng cường công tác quản lí và giám sát chặt lĩnh vực truyền hình trả tiền đang là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với các cơ quan quản lí, đặc biệt trong bối cảnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, phá giá, kinh doanh dịch vụ sai phép của một số doanh nghiệp đang có nguy cơ phá vỡ sự ổn định của thị trường, gây thất thoát, lãng phí cho xã hội.


Từ đầu năm, dư luận xôn xao về việc một doanh nghiệp truyền hình trả tiền có “đại bản doanh” đặt tại miền Nam tìm cách “lấn sân” ra ngoài Bắc bằng chiêu lách luật để cung cấp dịch vụ truyền hình cáp analog tại một số quận, huyện ở Hà Nội dù không được cấp phép.


Sau khi các cơ quan chức năng vào cuộc, những ngày cuối tháng 6, doanh nghiệp này đã bị xử phạt về những vi phạm nghiêm trọng trong việc thực hiện sai giấy phép được cấp và các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động truyền hình trả tiền. Sự việc này đã đánh động những lo ngại trước thực trạng “bát nháo” trong cung cấp dịch vụ, làm lung lay niềm tin của người tiêu dùng về dịch vụ truyền hình trả tiền.


Khách hàng - nạn nhân bất đắc dĩ


Nhiều ngày nay, một số gia đình tại ngõ 108 dốc Thọ Lão (Hai Bà Trưng – Hà Nội) hoang mang trước thông tin SCTV - đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình mà họ đang sử dụng bị xử phạt vì cung cấp truyền hình cáp analog sai phép. Đăng kí dùng dịch vụ truyền hình HD của nhà cung cấp này cách đây không lâu, anh Nguyễn Tấn Đạt cho biết, gia đình anh được trang bị miễn phí 1 đầu thu HD, nhà có 3 tivi nên 2 chiếc còn lại anh đã đấu vào đường chia tín hiệu truyền hình cáp để xem tại các phòng.


Nay biết thông tin về việc tín hiệu truyền hình xem tại 2 tivi kia là bất hợp pháp, anh tỏ ra rất thất vọng. “Khi đến tiếp thị, họ nói có thể xem tại các tivi khác mà không cần đầu thu, không phải đóng thêm phí nên chúng tôi nối dây để xem. Nay lại có thông tin đó, tôi không nghĩ một đơn vị kinh doanh như SCTV lại có thể làm ăn phi pháp, lừa dối người tiêu dùng”.


Trước sự việc SCTV bị xử phạt và buộc ngừng cung cấp dịch vụ truyền hình cáp analog tại Hà Nội, nhiều khách hàng của nhà cung cấp này mới vỡ lẽ bấy lâu nay dù trả tiền thuê bao nhưng họ vẫn phải dùng truyền hình “lậu”.


Cùng chung cảm giác bị “lừa dối”, ông Nguyễn Văn Hiếu (số 27 tổ 60 Tương Mai – Hoàng Mai – Hà Nội) tỏ ra bất bình bởi đến nay SCTV vẫn chưa có động thái giải thích rõ ràng với gia đình ông. Ông Hiếu bức xúc: “Việc cung cấp tín hiệu truyền hình trái phép của SCTV như vậy thật đáng lên án, khiến cho khách hàng chúng tôi vô tình trở thành người tiêu thụ sản phẩm phạm pháp”.


Thậm chí, bà Nguyễn Thị Chung (số 1 tổ 60 Tương Mai – Hoàng Mai – Hà Nội) còn cho rằng: “SCTV không được phép cung cấp tín hiệu mà vẫn cung cấp cho chúng tôi như thế là lừa đảo. Người sử dụng dịch vụ như chúng tôi rất bức xúc và đề nghị các cơ quan chức năng xử lí theo pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho người dân.”


Trách nhiệm của nhà cung cấp?


Được biết, theo yêu cầu của Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội, trước ngày 01/8/2014, SCTV bắt buộc phải chấm dứt việc phát tín hiệu truyền hình cáp analog vào mạng viễn thông trên địa bàn thành phố Hà Nội.


Có lẽ vì quá tham vọng trong phát triển thị phần, SCTV đã quên đi trách nhiệm của mình đối với khách hàng. SCTV từng tuyên bố, đến ngày 24/6 đã thực hiện xong hơn 90% số lượng tivi cần chuyển đổi, sẽ chuyển đổi hợp đồng, lắp đặt thiết bị số cho 100% các hộ đang dùng thuê bao analog tại các khu vực Hoàng Mai, Hà Đông, Thanh Oai.


Tuy nhiên, đến nay, nhiều khách hàng của SCTV vẫn chưa nhận được thông báo gì từ nhà cung cấp và tỏ ra không “mặn mà” với chính sách chuyển đổi dịch vụ của SCTV, bởi dù trang bị đầu thu miễn phí nhưng họ vẫn phải trả thêm một khoản phí không nhỏ để xem trên nhiều tivi.


Ông Hoàng Văn Hòa, chủ kinh doanh nhà nghỉ tại địa bàn khối Hạnh Phúc, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông (Hà Nội) cho biết, ông đăng kí lắp đặt 1 đầu thu HD để phục vụ nhu cầu gia đình và lắp truyền hình cáp cho tivi tại các phòng nghỉ để phục vụ khách hàng.


Hàng tháng, SCTV thu 80.000 đồng cho dịch vụ HD và 30.000 đồng/tivi cho dịch vụ truyền hình cáp. “Qua báo chí tôi mới biết thông tin SCTV phải ngừng cung cấp dịch vụ truyền hình cáp sai phép, thế nhưng cho đến nay họ vẫn chưa thông báo gì cho chúng tôi cả. Nếu như phải chuyển đổi sang sử dụng đầu thu cho các tivi khác phí truyền hình sẽ tăng lên vài triệu một tháng. Nếu vậy thì việc kinh doanh của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ”, ông Hòa than thở.


Điều đáng nói hơn, bên cạnh việc chi phí để xem truyền hình bỗng dưng bị đội lên thì đối với người tiêu dùng điều quan trọng hơn cả là sự thất vọng và bất bình khi niềm tin, lựa chọn bị đặt nhầm chỗ.


Có thể thấy rằng, từ sau ngày 1/8/2014, ngay cả khi SCTV chấp hành nghiêm túc việc ngừng phát tín hiệu truyền hình cáp analog vào mạng viễn thông trên địa bàn Hà Nội thì việc cố tình kinh doanh không giấy phép, vi phạm quy định, bất chấp cơ quan chủ quản cùng dư luận là hành vi khó chấp nhận trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay.



Theo kết luận thanh tra công bố ngày 19/6 của Sở Thông tin & Truyền thông Hà Nội, SCTV buộc phải ngừng truyền dẫn tín hiệu truyền hình cáp analog trên mạng viễn thông Hà Nội trước ngày 1/8.


Trước đó, Sở đã tiến hành kiểm tra và kết luận: SCTV cung cấp dịch vụ truyền hình cáp analog trên địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Đông, huyện Thanh Oai là vi phạm quy định về phạm vi cung cấp dịch vụ trong Giấy phép cung cấp dịch truyền hình trả tiền số 189/GP-BTTTT (theo giấy phép được cấp, SCTV không được cung cấp dịch vụ truyền hình analog trên địa bàn thành phố Hà Nội).


Tại khu vực quận Long Biên, Hai Bà Trưng và các khu vực khác trên địa bàn Hà Nội, SCTV không kí hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình cáp analog với khách hàng mà chỉ kí hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình cáp kĩ thuật số. Tuy nhiên, trên hạ tầng mạng viễn thông của các khu vực này vẫn có tín hiệu truyền hình cáp analog của SCTV nên người dân đã sử dụng tín hiệu này. Việc SCTV truyền tín hiệu truyền hình analog vào mạng viễn thông trên địa bàn Hà Nội vi phạm quy định tại Điều 28 và Khoản 1 Điều 29 quy chế quản lí hoạt động truyền hình trả tiền ban hành kèm theo Quyết định số 20/2011/QĐ-TTg ngày 24/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ.



Theo Doisongphapluat.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.