Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Có phải các nhà khoa học Việt không biết nghiên cứu?

Có phải các nhà khoa học Việt không biết nghiên cứu?

Hoạt động nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam thực sự còn yếu kém.



Thực tế không hẳn như vậy.


Người Việt thường hay nhìn vào con số để suy đoán và kết luận. Vậy, hãy xem những con số có thể cho ta biết những gì.


Việt Nam có bao nhiêu người làm R&D?


Câu hỏi đầu tiên cần trả lời là, Việt Nam có bao nhiêu người đang thực sự làm công việc R&D?


Đúng là theo thống kê, Việt Nam có khoảng gần 2000 đơn vị có hoạt động R&D trong đó có khoảng 700 đơn vị trực thuộc các bộ, ngành và hơn 1000 đơn vị khác thuộc địa phương. Tuy nhiên, đây chỉ là con số ở bề nổi.


Theo thống kê của Bộ KH&CN, tính đến hết năm 2011, Việt Nam có 134.780 nhân lực làm công tác R&D, chiếm 0,15% dân số (87,84 triệu dân). Trong số này, số lượng cán bộ nghiên cứu chỉ là 105.230 người, còn lại là cán bộ kĩ thuật, cán bộ hỗ trợ. Song, đây vẫn là những con số ở bề nổi.


Thống kê của Bộ KH&CN cho thấy, số cán bộ làm công tác nghiên cứu này chủ yếu tập trung ở các trường đại học, với 52.997 người, chiếm tới hơn 50%.


Theo quy định, các giảng viên tại các trường đại học chỉ dành từ 400 - 600 giờ (tùy cấp bậc giảng viên) cho hoạt động nghiên cứu trong tổng số 1760 giờ làm việc mỗi năm. Nghĩa là, các giảng viên đại học chỉ dành từ 22 - 34% thời gian cho việc nghiên cứu mà thôi.


Với con số này, nếu quy đổi một cách tương đối sang số người tương đương toàn thời gian (FTE) thì nhân lực hoạt động nghiên cứu tại các trường đại học chỉ tương đương với 15 ngàn người.


Tuy vậy, đây cũng chỉ là con số lí thuyết khi thời gian xuất hiện tại các lò luyện thi hay tham gia các hoạt động kinh doanh khác của các giảng viên luôn hấp dẫn hơn nhiều so với việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu.


Như vậy, số nhân lực dành cả ngày cho hoạt động R&D tại Việt Nam thực chất chỉ vào khoảng 67.233 người. Trong số đó, số người làm việc tại các viện, trung tâm R&D chỉ khoảng 15 ngàn người.


Còn lại, 15 ngàn người làm việc tại các doanh nghiệp, 30 ngàn người khác làm việc ở các trường đại học, các đơn vị sự nghiệp, cơ quan hành chính và các tổ chức phi lợi nhuận khác.


Con số hơn 67 ngàn nhà nghiên cứu đương nhiên không phải là con số nhỏ. Nhưng hãy làm thử một phép so sánh.


Ảnh

Tỉ lệ nhà nghiên cứu trên 1 triệu dân của VN gần như bằng 0.



Với 67 ngàn nhà nghiên cứu thì tỉ lệ nhà nghiên cứu trên 1 triệu dân tại Việt Nam vào khoảng 0,0007 người. Còn đây là con số tại các quốc gia mà người ta hay lấy ra so sánh với Việt Nam, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB): Mỹ: 4650 người (2007), Trung Quốc: 936 người (2011), Hàn Quốc: 5451 người (2010), Singapore: 6307 người (2010), Malaysia: 1643 người (2011)…


Nếu tính ra con số tuyệt đối, vào năm 2007, nước Mỹ có 1,4 triệu nhà nghiên cứu, Trung Quốc có 1,25 triệu nhà nghiên cứu vào năm 2011 và vào năm 2010 Hàn Quốc có 265.809 nhà nghiên cứu, cao gấp 4 lần so với Việt Nam.


Đó là mới nói tới các nhà nghiên cứu, con số cán bộ kĩ thuật (technicians) tại Việt Nam còn thê thảm hơn.


Theo thống kế của Bộ KHCN, năm 2011, Việt Nam có khoảng 9781 người. Suy ra, tỉ lệ số cán bộ kĩ thuật trên 1 triệu dân vào khoảng 0,0001 người/1 triệu dân. Còn đây là con số tại các quốc gia khác: Hàn Quốc: 981 người/1 triệu dân (2010), Malaysia: 158 người/1 triệu dân…


Như vậy, có thể thấy rằng, số người làm công việc nghiên cứu và kĩ thuật tại Việt Nam là cực kì ít ỏi so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới.


Việt Nam chi bao nhiêu cho R&D?


Giờ, chúng ta sẽ nói về số tiền mà Việt Nam đang chi dùng cho hoạt động R&D.


Người ta thường nói về việc Mỹ hay Trung Quốc chi rất nhiều tiền cho hoạt động R&D song lại không biết, Việt Nam đang dùng bao nhiêu tiền cho hoạt động này.


Ảnh

Số tiền Việt Nam chi cho hoạt động R&D hàng năm thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác.



Theo thống kê của Bộ KHCN, năm 2011, tổng chi quốc gia cho hoạt động R&D của Việt Nam (GERD) là 5293 tỉ VND (tương đương 0,25 tỉ USD). Như vậy, tỉ lệ chi quốc gia cho R&D trên GDP của Việt Nam khoảng 0,21%.


Hãy thử đặt con số này bên cạnh các quốc gia khác. GERD của Mỹ năm 2011 là 2,77%, cao gấp 13 lần Việt Nam. Tính ra con số thực tế, số tiền mà Mỹ đầu tư cho hoạt động R&D vào khoảng 450 tỉ USD, cao hơn Việt Nam 1785 lần.


Bạn nghĩ rằng, Hoa Kì là quốc gia phát triển, chuyện hơn Việt Nam là đương nhiên? Chúng ta hãy thử so sánh với anh bạn láng giềng Trung Quốc.


GERD của Trung Quốc năm 2011 là 1,84%, cao gấp 8,7 lần so với Việt Nam. Tính theo con số thực tế, số tiền mà Trung Quốc đầu tư cho hoạt động R&D vào khoảng 250 tỉ USD, cao gấp 992 lần so với Việt Nam.


Không nói chuyện với những nước lớn như Mỹ và Trung Quốc, chúng ta so với các quốc gia nhỏ hơn vậy. GERD của Hàn Quốc vào năm 2010 là 3,74%, tương đương khoảng 33,7 tỉ USD, gấp 133 lần so với Việt Nam. GERD của Malaysia vào năm 2011 là 1,07%, tương đương 2,65 tỉ USD, cao gấp 10 lần so với Việt Nam.


Một điểm cũng đáng lưu ý là nguồn tiền cho hoạt động R&D ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là do nhà nước tài trợ, chiếm 64%, các doanh nghiệp chỉ chiếm 28% trong tổng chi. Trong khi đó, nguồn tiền cho hoạt động R&D tại các quốc gia khác, nhất là các quốc gia phát triển chủ yếu đến từ doanh nghiệp.


Chúng ta lại làm một phép so sánh. Tỉ lệ cấp tài chính cho hoạt động R&D tại Trung Quốc vào năm 2011 là 77,3% từ doanh nghiệp còn chính phủ chỉ chiếm 24,26%. Tại Hàn Quốc, vào năm 2010, 71,8% nguồn tiền cho R&D đến từ doanh nghiệp, chính phủ chỉ chiếm 26,75%.


Khi R&D vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong ngân sách và khi nó vẫn được coi là hoạt động “đã có Đảng và Nhà nước lo” thì lẽ đương nhiên, R&D tại Việt Nam có muốn phát triển cũng sẽ rất khó.


Vì sao Việt Nam lại ít bằng sáng chế?


Cuối cùng, chúng ta nói tới số lượng bằng sáng chế (Patent Cooperation Treaty - PCT) ít ỏi của Việt Nam được đăng kí với thuộc Tổ chức sở hữu trí tuệ quốc tế (WIPO).


Trước hết, hãy xem mỗi người dân và nhà nghiên cứu tại Việt Nam được chi bao nhiêu cho hoạt động R&D mỗi năm.


Ảnh

Bình quân kinh phí R&D trên đầu cán bộ nghiên cứu của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước khác.



Theo Bộ KHCN, GERD của Việt Nam trên đầu người năm 2011 khoảng 7 USD ppp (USD theo sức mua tương đương, con số thực tế thấp hơn nhiều) chưa bằng 1/2 so với Thái Lan (16,53 USD) và chỉ bằng 1/10 của Malaysia năm 2006 (78,63 USD) và chỉ bằng 1/20 so với Singapore năm 2009 (1.324 USD).


Nhiều người sẽ nói rằng, nước ta đông dân mà ngân sách cho nghiên cứu thì ít, đương nhiên, bình quân trên đầu dân sẽ thấp. Tuy nhiên, con số chi hoạt động R&D trên đầu cán bộ nghiên cứu cũng không khá hơn.


Theo con số của Bộ KHCN, kinh phí nghiên cứu trung bình cho một cán bộ nghiên cứu của Việt Nam vào khoảng 50 triệu/năm (khoảng 2358 USD). Trong khi đó, ở quốc gia ngay cạnh chúng ta, Malaysia, trung bình, mỗi nhà nghiên cứu được đầu tư 57,6 ngàn USD/năm, cao gấp 24 lần so với Việt Nam.


Con số này càng cách biệt khi chúng ta so sánh với Singapore. Vào năm 2010, Singapore chi 2,09% GPD cho hoạt động R&D, khoảng 4 tỉ USD. Như vậy, trung bình, mỗi nhà nghiên cứu của Singapore nhận được 126 ngàn USD/năm, cao gấp 53 lần so với Việt Nam.


Điểm đáng nói là, theo thông báo chính thức của WIPO, để có thể đăng kí PCT quốc tế, chủ nhân của các bằng sáng chế phải đóng một khoản phí tương đương 2 ngàn USD, gần bằng toàn bộ số kinh phí được cấp cho hoạt động R&D trong vòng 1 năm của cán bộ nghiên cứu.


Người xưa từng nói: “Có thực mới vực được đạo”, với nguồn kinh phí như vậy thì thật khó để đòi hỏi các nhà nghiên cứu chạy đua đăng kí những bằng sáng chế quốc tế để “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” được.


Tạm kết


Những điều bất thường luôn là miếng bánh hấp dẫn với truyền thông. Do vậy, chẳng có gì là lạ khi việc một người nông dân chế tạo máy gặt lúa được báo chí quan tâm nhiều hơn là một nhà khoa học Việt Nam xuất khẩu được một dây chuyền sản xuất sang Nhật Bản. Tuy nhiên, nếu như từ đó mà kết luận rằng, các nhà khoa học Việt chỉ biết "uống trà và tán phét" thì e là có phần hơi vội vàng.


Đã đành, hoạt động R&D tại Việt Nam còn rất yếu kém, không chỉ so với các quốc gia phát triển trên thế giới mà ngay cả với các quốc gia láng giềng. Song, trước khi đặt câu hỏi về khả năng nghiên cứu của các đơn vị R&D, cũng cần đặt câu hỏi nghiêm túc về nhận thức của doanh nghiệp, các đơn vị quản lí nhà nước cũng như truyền thông về vai trò của R&D tại một quốc gia như Việt Nam.


Theo VietNamNet.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.