Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Nhà mạng đang “ém” hàng tỉ đồng tiền hoàn cước?

Nhà mạng đang “ém” hàng tỉ đồng tiền hoàn cước?

Các nhà mạng không trả lại tiền cho người dùng đối với các tin nhắn sai cú pháp, tin nhắn lỗi, tin nhắn không được cung cấp dịch vụ, dù cho việc này đã được Bộ TT&TT quy định rất rõ.



Theo quy định, nhà mạng phải hoàn lại tiền cước cho thuê bao đối với những tin nhắn sai cú pháp kiểu này.Đợt kiểm tra trong năm 2013 của Thanh tra Bộ tại nhiều nhà cung cấp dịch vụ nội dung (CSP) như công ty Hà Thành, Tinh Vân, Trung tâm VDC Online, VMG..., đã nhận thấy các DN không thực hiện nghiêm túc việc trả lại tiền cho người dùng. Điển hình là trường hợp của VDC Online sau hơn 1 năm mới thực hiện xong việc hoàn cước cho người sử dụng với số tiền lên tới 1,43 tỉ đồng và vẫn còn hơn 300 triệu đồng không thể hoàn trả được.


Điều này hoàn toàn đi ngược với Chỉ thị 04 ngày 30/12/2011 của Bộ trưởng Bộ TT&TT, quy định rất rõ rằng: "các DN viễn thông di động phải nhanh chóng, kịp thời phối hợp cùng các DN cung cấp dịch vụ nội dung qua tin nhắn xác minh các tin nhắn từ chối sử dụng dịch vụ, tin nhắn bị lỗi kĩ thuật, tin nhắn bị sai cú pháp dịch vụ, tin nhắn yêu cầu mà không được cung cấp dịch vụ để hoàn lại tiền cho khách hàng". Nghị định số 77 của Chính phủ cũng quy định không được phép thu cước dịch vụ đối với các tin nhắn lỗi, tin nhắn không được cung cấp dịch vụ, tin nhắn đã được cung cấp dịch vụ nhưng có nội dung khác với mã lệnh mã doanh nghiệp công bố, tin nhắn do người dùng bị lừa đảo.


Ngay trong đợt thanh tra thuê bao trả trước diện rộng hồi giữa năm 2013 vừa qua, Thanh tra Bộ cũng nhận thấy mặc dù CSP có chuyển danh sách các thuê bao cùng số tiền phải hoàn lại cho nhà mạng, nhưng bản thân DN viễn thông lại hoàn thiếu. Thí dụ như từ tháng 4-8/2013, đáng lẽ phải hoàn cho người sử dụng nhắn đến đầu số 8x10 hơn 150 triệu đồng nhưng công ty VMS (MobiFone) chỉ hoàn cước của tháng 4 là 485.000 đồng.


Kiểm tra ngẫu nhiên 20 số thuê bao, Thanh tra phát hiện 5 thuê bao chưa được hoàn cước đầy đủ. Tổng số tiền cước không hoàn trả của 5 thuê bao này là 129.000 đồng. Kiểm tra ngẫu nhiên 29 thuê bao nhắn tin sai cú pháp nhưng hệ thống cho thấy Viettel không thực hiện hoàn cước cho các thuê bao này. Tổng số tiền không hoàn cước là 269.000 đồng.


"Hiện nay có gần 400 CSP lớn và nhỏ đang hợp tác cung cấp dịch vụ. Nếu họ không trung thực trong việc hoàn cước thì số tiền bất hợp pháp mà các CSP và nhà mạng giữ lại có thể rất lớn", Thanh tra Bộ khuyến cáo.


Trước đó, tại Hội nghị triển khai hoạt động 2014 của Thanh tra Bộ TT&TT (giữa tháng 12), đơn vị này cho biết đã yêu cầu VinaPhone hoàn lại tiền cước sử dụng các tin nhắn lỗi, tin nhắn sai cú pháp, tin nhắn không được cung cấp dịch vụ với tổng số tiền gần 693 triệu đồng. Tuy nhiên vẫn còn gần 77 triệu đồng không hoàn lại được do chủ thuê bao đã rời mạng. Tương tự, mạng MobiFone cũng phải hoàn lại gần 817 triệu đồng nhưng đến nay còn hơn 227 triệu đồng không thể hoàn lại vì khách hàng đã rời mạng.


Đối với Viettel, tình trạng thu cước người sử dụng đối với các tin nhắn kiểu này vẫn tồn tại. Nhà mạng này vẫn tiếp tục gửi quảng cáo cho người sử dụng mặc dù chủ thuê bao đã nhắn tin từ chối nhận tin nhắn quảng cáo.


Một vấn đề nữa cũng được Thanh tra Bộ lưu ý là việc cấp đầu số hiện nay đang không theo quy hoạch, cùng với đó là quy định về giá cước tương ứng. "Cùng 1 đầu số nhưng 3 nhà mạng có thể cấp cho 3 doanh nghiệp CSP khác nhau. Giá cước trước đây tối đa là 15.000 đồng/tin nhắn nhưng hiện nay đã có những đầu số có giá cước lên tới 50.000 đồng.


Để giải quyết tình trạng này, Thanh tra kiến nghị lãnh đạo Bộ sớm ra quy định yêu cầu nhà mạng, CSP phải hoàn cước ngay cho người sử dụng không được cung cấp dịch vụ, đồng thời sớm ban hành thông tư quy định chỉ có Bộ TT&TT mới được cấp đầu số cho CSP, không để nhà mạng tự cấp như hiện nay.


Theo Vietnamnet



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.