Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

5 xu hướng truyền thông xã hội năm 2014

5 xu hướng truyền thông xã hội năm 2014

Năm 2013, có thể tóm gọn các hoạt động trong lĩnh vực truyền thông xã hội bằng cụm từ “tiếp thị trong thời gian thực, tiếp thị bằng nội dung, video và di động”. Vậy trong năm 2014 này, việc tận dụng mạng truyền thông xã hội phục vụ cho tiếp thị và kinh doanh sẽ ra sao?


Tạp chí Entrepreneur đã nêu dự báo những gì sẽ trở thành những xu hướng phổ biến nhất mà giới tiếp thị sẽ vận dụng trong năm nay. Mời độc giả cùng tham khảo.



1. Chuyển từ kể chuyện bằng hình ảnh sang video clip ngắn


Trong năm 2013, hình thức kể chuyện về doanh nghiệp, về sản phẩm hay dịch vụ bỗng trở nên phổ biến trên các trang mạng xã hội thông qua hình ảnh hay slide. Đặc biệt, sau sáu tháng đầu năm đã bắt đầu có sự cách tân khi hình thức kể chuyện được thực hiện bởi những đoạn video clip ngắn gọn, súc tích và đầy ấn tượng. Hiện tượng đó có khả năng trở thành một trong những hình thức tiếp thị quan trọng nhất trong năm 2014.


Những nền tảng như ứng dụng Vine trên Twitter hay đoạn video 15 giây trên Instagram, nhất là khi Facebook đã cho phép cập nhật tin bằng video clip giúp mọi người đều có thể tạo ra và chia sẻ những nội dung clip của mình. Vì thế, vấn đề của các nhà tiếp thị không chỉ là hiểu được những nền tảng ấy hoạt động ra sao, mà còn phải biết được những người sử dụng cảm nhận hình thức trình bày nội dung mới đó như thế nào.


2. Giới doanh nghiệp sẽ cần đến fandom


Tom Fishman - Phó chủ tịch nội dung tiếp thị và gắn kết người hâm mộ của kênh giải trí MTV chính là người đầu tiên dùng khái niệm fandom để chỉ nhóm những fan hâm mộ cuồng nhiệt trong tập hợp đông đảo khách hàng. Đó là những người sẵn sàng làm mọi hoạt động quảng bá cho thần tượng của họ và vô tình trở thành đại sự quảng bá hình ảnh thương hiệu của một cá nhân hay một tổ chức.


Trong năm 2014, cùng với sự hỗ trợ của truyền thông xã hội, giới doanh nghiệp sẽ tập trung vào việc xác định và gắn kết chặt chẽ với các fandom. Không chỉ đơn giản tạo ra kết nối, doanh nghiệp còn phải cung cấp cho họ những công cụ để hỗ trợ họ lan truyền thông tin về doanh nghiệp trên mọi nẻo đường của truyền thông xã hội.


3. Google+ sẽ tiếp tục tăng trưởng cả về quy mô và tầm quan trọng


Mới đây, Google cho biết rằng mạng xã hội Google+ của họ đang có khoảng 300 triệu thành viên kích hoạt sử dụng. Trong khi đó, Facebook có khoảng 1,2 tỉ người sử dụng, còn Twitter có khoảng 232 triệu thành viên.


Không chỉ trở thành một nền tảng miền cộng đồng phổ biến hơn, Google+ tương tác cùng cỗ máy tìm kiếm Google và Google Authorship sẽ trở thành một bộ công cụ hữu ích của người sử dụng mạng trong 2014. Nói cách khác, các doanh nghiệp sẽ tích cực sử dụng và hiện diện trên Google+ để cải thiện vị trí của họ trong kết quả tìm kiếm của Google.


4. Các doanh nghiệp sẽ tập trung hơn vào bối cảnh


Trong năm 2013, giới doanh nghiệp đã tập trung vào việc tạo ra nội dung (content) vì cho rằng “nội dung chính là vua tiếp thị”. Do đó, tại hầu hết các thị trường, giới doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng những cụm từ tiếp thị bằng nội dung có cả lí thuyết lẫn ứng dụng.


Trong năm 2014, nhu cầu của việc đưa ra nhiều mẫu nội dung để tiếp thị có xu hướng giảm đi tầm quan trọng và các doanh nghiệp sẽ tập trung vào việc tạo ra nội dung mang tính phù hợp với bối cảnh (context) của các kênh trong mạng xã hội mà họ đang sử dụng.


Các nhà quản trị thương hiệu sẽ phải tự hỏi: “Vì lí do gì mà một số người chỉ sử dụng một số trang mạng xã hội nhất định, chẳng hạn có những người rất hay dùng Facebook, trong khi số khác lại thích xem hình bằng Instagram hoặc Pinterest?”. Điều quan trọng là phải biết được điều gì tạo nên một kênh xã hội độc đáo. Theo đó, họ sẽ tạo ra những mẫu nội dung mang tính chất phù hợp với bối cảnh dựa trên sự tìm hiểu thấu đáo những mong muốn của đông đảo người tham gia các mạng xã hội.


5. Sẽ có nhiều doanh nghiệp chấp nhận thuê quảng cáo trên mạng xã hội


Những thay đổi mới đây trong thuật toán News Feed của Facebook có khả năng quyết định những gì mọi người thấy và không thấy được trong phần News Feed (tin tức cập nhật) đã hạn chế rất nhiều tầm với đến người xem của những mẫu đăng tải cơ bản.


Vì đã có quá nhiều thương hiệu đang sử dụng Facebook để tiếp thị nên việc trả phí để quảng cáo trên mạng xã hội đang trở thành đòi hỏi mà các doanh nghiệp phải chấp nhận nếu muốn nội dung đăng tải của mình dễ dàng được những người hâm hộ tìm thấy.


Theo Doanh Nhân Sài Gòn



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.