Thứ Năm, 27 tháng 2, 2014

Doanh nghiệp phần cứng - điện tử VN èo uột do “người nhà”?

Doanh nghiệp phần cứng - điện tử VN èo uột do “người nhà”?

Nhiều chuyên gia bày tỏ sự thất vọng khi doanh nghiệp phần cứng – điện tử Việt Nam vẫn còn èo uột sau gần 30 năm phát triển ngành công nghiệp điện tử. "Người trong cuộc" lí giải do có nhiều rào cản từ phía "người nhà"


Vẫn nhường sân cho người ngoài


Ông Trần Quang Hùng, Phó Tổng thư kí Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam cho biết "ngành công nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay không có nhiều sự đóng góp của doanh nghiệp nội địa. Tổng doanh số xuất khẩu phần cứng - điện tử năm qua đạt hơn 30 tỉ USD, nhưng trong đó hơn 20 tỉ USD thu được từ hoạt động xuất khẩu điện thoại di động và linh kiện điện thoại của Samsung cùng một số doanh nghiệp nước ngoài khác, còn lại hơn 10 tỉ USD thu được từ hoạt động xuất khẩu các linh kiện điện tử khác và máy tính (chủ yếu từ các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài). Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ tập trung vào hoạt động gia công để tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ, chứ chưa đầu tư vào công nghệ nguồn. Rõ ràng, công nghiệp điện tử ở Việt Nam đã có thị trường nhưng hoạt động đầu tư cho doanh nghiệp điện tử nội địa sản xuất ra các sản phẩm cạnh tranh vẫn không được như mong muốn".


Nhìn lại quá trình phát triển gần 30 năm qua của ngành công nghiệp điện tử, ông Nguyễn Ngọc Bình, Hiệu trưởng trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội chua xót nói: "Từ khi thành lập Tổng cục Điện tử và Kĩ thuật Tin học (năm 1983), chúng ta đã muốn và kì vọng rất nhiều vào sự phát triển ngành công nghiệp phần cứng và phần mềm. Thế nhưng đến nay, với thị trường quy mô 90 triệu dân, chúng ta vẫn chưa chế tạo được linh kiện điện tử, mới chỉ làm được hộp các tông và một số sản phẩm đơn giản khác. Đó là cái đau của chúng ta. Đáng lẽ phải đi bằng 2 chân thì chúng ta đang đi khập khiễng. Đến giờ, từ lãnh đạo các cấp đến từng doanh nghiệp, cơ quan đào tạo,... chúng ta vẫn chưa làm được những gì từng mong muốn cách đây 30 năm".


Đồng tâm trạng, ông Nguyễn Long, Tổng Thư kí Hội Tin học Việt Nam chia sẻ: "Cá nhân tôi cho rằng ngành điện tử và một số ngành công nghiệp phụ trợ, tự động hóa đang dần dần mất đi những tên tuổi doanh nghiệp Việt, cần phải làm sao để sớm "trả lại tên cho em"".


Ông Phan Anh, Chủ tịch Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam lưu ý: "Công nghiệp điện tử, nói chi tiết hơn là thiết kế, chế tạo vi điện tử là mảng rất quan trọng trong sự phát triển CNTT-TT. Nếu bỏ qua mảng này thì Việt Nam sẽ chỉ là khách hàng sử dụng các sản phẩm của quốc tế, khó có thể phát triển thành một nước mạnh".


Ảnh

Phần lớn đóng góp cho sự phát triển công nghiệp phần cứng - điện tử Việt Nam đến từ doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ảnh minh họa. Ảnh: Internet.



Rào cản từ chính người nhà


Theo ông Trần Quang Hùng, số lượng doanh nghiệp Việt Nam sản xuất sản phẩm phần cứng - điện tử còn quá ít là do 3 nguyên nhân. Thứ nhất, còn bất cập trong việc chi tiêu mua sắm của các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp. Nhiều dự án đấu thầu đề ra yêu cầu doanh nghiệp dự thầu phải có 10 - 15 năm kinh nghiệm sản xuất thiết bị điện tử công nghệ cao, trong khi doanh nghiệp Việt mới chỉ nghiên cứu vài năm, không thể đáp ứng yêu cầu.


Thứ hai, kể từ khi trách nhiệm quản lí lĩnh vực điện tử được chuyển từ Bộ Công nghiệp cũ sang Bộ Bưu chính Viễn thông, nay là Bộ TT&TT thì hầu hết các chính sách về điện tử được nhập chung với chính sách CNTT, công nghiệp CNTT và mấy năm gần đây, hầu như không được nhắc đến trong các văn bản pháp quy, chính sách của Nhà nước. Chính sách về điện tử vẫn bỏ trống rất nhiều mảng, ví dụ như mảng thiết bị điện tử dân dụng, gia dụng có thị trường rất lớn nhưng không có chính sách khuyến khích nào.


Thứ ba, chính sách thuế hiện có nghịch lí là nhìn vào biểu thuế nhập khẩu thì thấy thuế suất thuế nhập khẩu các linh kiện để sản xuất ra sản phẩm điện tử trong nước rất cao, mấy chục phần trăm, trong khi sản phẩm nguyên chiếc đều rất thấp, chỉ 0% hoặc 5%. Trong khi chính sách vĩ mô khuyến khích sản xuất trong nước thì chính sách thuế lại khuyến khích nhập thiết bị nguyên chiếc, hạn chế hoạt động sản xuất trong nước.


Đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất phần cứng - điện tử Việt Nam, ông Trần Quang Hùng đề xuất một loạt kiến nghị. Về chính sách vĩ mô, đề nghị Chính phủ và Bộ TT&TT đề ra các chính sách về phát triển công nghiệp điện tử một cách độc lập, riêng rẽ, không nhập chung vào chính sách phát triển công nghiệp CNTT để đảm bảo đặc thù ngành của ngành điện tử.


Về đầu tư hỗ trợ Nhà nước, kiến nghị thành lập một chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước do Bộ TT&TT kết hợp Bộ Khoa học Công nghệ quản lí, đặt tại Bộ TT&TT để khuyến khích nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm điện tử trong nước. Đồng thời, xem xét thành lập một số phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để thử nghiệm, hỗ trợ nghiên cứu sản xuất các sản phẩm trong nước. Mặt khác, nên nghiên cứu đưa một số sản phẩm điện tử vào danh sách các sản phẩm trọng điểm quốc gia, xây dựng chính sách đồng bộ để phát triển các sản phẩm đó.


Về phát triển thị trường, đề nghị Bộ TT&TT nghiên cứu thành lập Ban Chỉ đạo cấp Bộ về triển khai chương trình "người Việt Nam dùng hàng Việt Nam", khuyến khích mua sắm hàng nội địa; nghiên cứu đưa ra danh mục các sản phẩm về điện tử, CNTT ưu tiên sản xuất trong nước để làm cơ sở cho doanh nghiệp định hướng đầu tư nghiên cứu sản xuất.


Theo Infonet



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.