Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

Vì sao Cục Viễn thông “tuýt còi” chương trình FTTH EDU của Viettel?

Vì sao Cục Viễn thông “tuýt còi” chương trình FTTH EDU của Viettel?

Lí do Viettel phải dừng chương trình triển khai chính sách FTTH EDU (kết nối Internet cáp quang) cho ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Nam do “vi phạm các quy định về quản lí giá cước và khuyến mại trong lĩnh vực viễn thông.



Ngày 25/8/2014, Cục Viễn thông (Bộ TT&TT) đã ra văn bản yêu cầu Viettel dừng ngay chương trình triển khai chính sách FTTH EDU (kết nối Internet cáp quang) cho ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Nam.


Công văn này được đưa ra sau khi Cục Viễn thông nhận được thông tin về việc tổ chức chương trình triển khai chính sách FTTH EDU (kết nối Internet cáp quang) cho ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Nam tại Công văn số 909/HNM-CĐBR ngày 23/7/2014 của Chi nhánh Viettel Hà Nam.


Lí do Viettel phải dừng chương trình này bởi “vi phạm các quy định về quản lí giá cước và khuyến mại trong lĩnh vực viễn thông".


Trong văn bản, Cục Viễn thông cũng yêu cầu Viettel phải báo cáo chương trình đã triển khai, bao gồm số thuê bao đăng kí sử dụng, thời gian đăng kí, dự kiến doanh thu bị thất thu… cách khắc phục khi chương trình dừng không triển khai. Ngoài ra, doanh nghiệp phải chịu hoàn toàn trước pháp luật về việc thất thu do vi phạm nói trên và quy định nộp thuế giá trị gia tăng theo quy định.


Theo tìm hiểu của phóng viên, chương trình triển khai chính sách FTTH EDU nằm trong chương trình “Kết nối mạng giáo dục” triển khai từ năm 2008 – 2013. Trước đó, để gia tăng thị phần, năm 2008 Viettel đã có bước đi chiến lược khi quyết định đột phá vào thị trường Internet thông qua ngành giáo dục, bằng cách hỗ trợ kinh phí nối Internet tới 39.000 trường học và đơn vị thuộc ngành giáo dục.


Cụ thể năm 2008, Viettel và Bộ GD&ĐT đã kí biên bản ghi nhớ đưa kết nối Internet đến 100% cơ sở giáo dục (thường được gọi là Chương trình Internet trường học). Trong chương trình này, Viettel sẽ kết nối Intenet băng rộng ADSL với tất cả các trường tiểu học, trung học, mẫu giáo, mầm non, các trung tâm giáo dục cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên…


Kết nối kênh riêng bằng đường cáp quang tốc độ 4Mbps miễn phí tới tất cả các Sở Giáo dục và Đào tạo, giảm 70% cước kết nối kênh riêng bằng cáp quang tới các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.


Bên cạnh đó với các trường ở vùng sâu vùng xa, Viettel cam kết sẽ cung cấp miễn phí cả thiết bị lẫn cước kết nối hàng tháng bằng công nghệ qua sóng điện thoại. Với công nghệ GPRS, tốc độ có thể đạt 120 Kbps. Đến năm 2009 nâng cấp lên công nghệ 3G tốc độ có thể đạt 1 Mbps…


Chỉ trong vòng một năm, việc kết nối đã thực hiện xong tại khoảng 50% đơn vị trong chương trình. Nhà cung cấp này hiện cũng đã hoàn thành việc kết nối kênh thuê riêng qua đường cáp quang từ Bộ GD&ĐT tới 63 Sở Giáo dục-Đào tạo trên cả nước.


Theo dự kiến đến năm 2013 chương trình sẽ hoàn thành, tuy nhiên chương trình này đã về đích sớm vào năm 2010.


Tiếp tục chương trình “Kết nối mạng giáo dục” đã được triển khai từ 2008-2013, ngày 28/05/2014, Tập đoàn Viễn thông Quân đội và Bộ GD&ĐT đã tổ chức Lễ kí kết thỏa thuận hợp tác toàn diện,


Theo đó, thỏa thuận có 2 nội dung quan trọng. Thứ nhất từ thời điểm kí kết đến năm 2015, 100% cơ sở giáo dục trong cả nước từ mầm non đến đại học sẽ được Viettel hoàn thành kết nối miễn phí bằng hạ tầng cáp quang, cho phép tiếp cận Internet tốc độ cao, chất lượng ổn định và cùng lúc số lượng lớn người sử dụng.


Thứ hai Viettel sẽ phối hợp với Bộ GD&ĐT đẩy mạnh đưa ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) một cách thống nhất, toàn diện và xuyên suốt từ trung ương đến địa phương và các hoạt động giáo dục đào tạo của ngành.


Trở lại vấn đề liên quan đến văn bản của Cục Viễn thông yêu cầu Viettel dừng ngay chương trình triển khai chính sách FTTH EDU (kết nối Internet cáp quang) cho ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Hà Nam do “vi phạm các quy định về quản lí giá cước và khuyến mại trong lĩnh vực viễn thông".


Chiều ngày 28/8, phóng viên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với đại diện Viettel. Vị này cho biết, FTTH EDU là chương trình tài trợ không phải chương trình khuyến mại và đang được Viettel hạch toán theo chi phí tài trợ không phải chi phí khuyến mại.


Việc tài trợ và hạch toán này thực hiện theo quy định của pháp luật, hoàn toàn không vi phạm về quản lí giá cước và khuyến mại trong lĩnh vực viễn thông.


Cụ thể, theo tiết a điểm 2.23 khoản 2 điều 6 chương II thông tư 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 hướng dẫn thi hành nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (trước ngày 2/8/2014 được quy định ở tiết a điểm 2.21 khoản 2 điều 6 chương II thông tư 123/2012/TT-BTC ngày 27/7/2012), đây là khoản tài trợ cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, học tập và hoạt động của trường học.


Theo tiết b điểm 2.23 khoản 2 điều 6 chương II thông tư 78/2014/TT-BTC (trước ngày 2/8/2014 được quy định ở tiết b điểm 2.21 khoản 2 điều 6 chương II thông tư 123/2012/TT-BTC), hồ sơ xác định khoản tài trợ cho giáo dục gồm: Biên bản xác nhận khoản tài trợ có chữ kí của người đại diện cơ sở kinh doanh là nhà tài trợ, đại diện của cơ sở giáo dục hợp pháp là đơn vị nhận tài trợ, học sinh, sinh viên (hoặc cơ quan, tổ chức có chức năng huy động tài trợ) nhận tài trợ (theo mẫu số 03/TNDN ban hành kèm theo Thông tư này); kèm theo hóa đơn, chứng từ mua hàng hóa (nếu tài trợ bằng hiện vật). Viettel đã hướng dẫn chi nhánh thực hiện quy định trên khi triển khai thực hiện chương trình.


“Viettel có đầy đủ hồ sơ, biên bản xác nhận khoản tài trợ giữa Chi nhánh Viettel Hà Nam và các trường được tham gia chương trình kèm theo hợp đồng và hóa đơn phí hòa mạng của đơn vị thụ hưởng. Viettel sẽ gửi giải trình lên Cục Viễn thông trong ngày 28/8/2014”, đại diện Viettel cho biết.


Theo Giaoduc.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.