Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

Kinh doanh trực tuyến: Ưu thế bình dân

Kinh doanh trực tuyến: Ưu thế bình dân

"Tâm lí giá rẻ”


Theo Cục Thương mại Điện tử và Công nghệ Thông tin (VECITA), năm 2013, giá trị giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam đã cán mốc 45 ngàn tỉ đồng và có khả năng tăng gấp đôi con số này, tăng trưởng hơn 300% vào năm 2015.


Dự báo của EuroMonitor cũng cho rằng, đến năm 2016 dân số dùng internet của Việt Nam sẽ đạt 43 triệu người, tương đương khoảng 40-45% dân số, đây được xem là tỉ lệ vàng để thị trường thương mại điện tử bùng nổ.


Tuy nhiên, một khảo sát của VPBank Securities (VPBS) đối với ngành thực phẩm và đồ uống tháng 6/2014 cho thấy, xu hướng mua hàng trực tuyến chưa phổ biến ở Việt Nam dù có hứa hẹn tiềm năng. Cụ thể, đa số người tham gia khảo sát thường nghiên cứu sản phẩm và tìm kiếm thông tin sản phẩm trực tuyến, chiếm 72% và 70% tổng số người trả lời.


Các hoạt động trực tuyến khác bao gồm đọc quảng cáo, so sánh giá cả hàng hóa và truy cập trang website của nhà sản xuất cũng được thực hiện bởi phần lớn số người tham gia nghiên cứu. Đa số những người được hỏi đều tìm hiểu thông tin về sản phẩm và nhà sản xuất trực tuyến, nhưng có ít hơn một nửa trong số họ mua hàng trực tuyến.


Về ý định mua hàng trực tuyến, thực phẩm và đồ uống xếp thứ tư với 39% tổng số người được hỏi, may mặc, giày dép và các phụ kiện, đồ gia dụng và điện thoại di động vẫn là ba nhóm hàng hóa mà người tiêu dùng có ý định mua nhiều nhất.


Tiềm năng là thế, nhưng theo ý kiến của nhiều DN, tình trạng của các đơn vị kinh doanh bán lẻ trực tuyến hiện nay vẫn đang đua giá rẻ, khuyến mãi, điều này được xem là cách làm trái ngược với xu hướng kinh doanh thương mại điện tử.


Theo ông Christopher B.Beselin, Giám đốc Điều hành, đồng sáng lập Lazada Vietnam, ở thị trường châu Mỹ, châu Âu có những website bán hàng trực tuyến chuyên về bán hàng cá nhân, còn ở Việt Nam, đa phần các website bán hàng trực tuyến đắt hàng do giảm giá hằng ngày.


"Có lẽ vì bản chất người Việt không tin vào chất lượng những món hàng bán trên mạng, nên thị trường bán lẻ trực tuyến Việt Nam thường dựa vào sự giảm giá mạnh để thu hút khách hàng, chứ không dựa vào lòng tin hàng hóa của khách như ở Mỹ hay các nước châu Âu", ông Christopher B.Beselin, phân tích. Từ nhận định này, ông Christopher B.Beselin cho biết, Lazada Việt Nam vì thế cũng sẽ khác với Lazada ở các nước châu Âu là diễn ra ở những website bình dân hơn và thường ngày hơn.



Còn ở nhóm mặt hàng sách, văn phòng phẩm, ông Tạ Nguyễn Tấn Trương, Giám đốc Kinh doanh trực tuyến, Công ty CP Văn hóa Phương Nam, cho biết, sự khác nhau giữa phương thức bán hàng truyền thống và số hóa là chính sách giá rất cạnh tranh, để gia nhập và tồn tại, DN buộc phải liên tục khuyến mãi, không thì đồng nghĩa với chết.


Không kể đến những đơn vị có tiềm lực, mạnh vốn như Sendo.vn, Lazada.vn..., hầu hết các DN đang dần chuyển từ bán lẻ truyền thống sang bán lẻ online đều gặp chung cảnh khách hàng rất hạn chế do không thể cảm nhận được sản phẩm, hoặc sự nghi ngờ về chất lượng hàng hóa.


"Do đó, cách mà các DN chọn hiện nay vẫn là vừa bán hàng online, vừa bán hàng trực tiếp, giúp khách hàng có thể đến điểm mua hàng để kiểm định sản phẩm", ông Trương nói.


Lựa chọn mô hình


Lợi thế của bán lẻ truyền thống là tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, trong khi mọi giao dịch của bán lẻ trực tuyến đều phải qua internet, đây được xem là thách thức đối với các DN lựa chọn xu hướng này.


Bởi theo ông Christopher B.Beselin, với lượng đơn hàng khoảng từ 10.000 - 100.000/ngày sẽ là vấn đề vô cùng phức tạp đối với DN. Làm sao để đảm bảo tốt đội ngũ, dịch vụ giao hàng, số lượng hàng hóa, nhận lại tiền mặt... DN muốn thành công phải giải quyết được các vấn đề này để từng bước xây dựng lòng tin ở khách hàng.


Cụ thể, ông Christopher B.Beselin cho hay, hiện nay, phương thức kinh doanh trực tuyến đang chuyển đổi theo mô hình, truyền thống (khi có khách đặt hàng mới lấy về để trong kho đến khi khách nhận hàng). Mô hình này được đánh giá tốt nhưng gặp hai hạn chế là giới hạn không gian kho và tài chính (phải lớn).


Đó là lí do khiến nhiều DN tiến đến mô hình thứ hai (đang được áp dụng nhiều ở Mỹ) là kí hợp đồng với các nhà phân phối khi có đơn hàng, họ sẽ yêu cầu nhà phân phối chuyển hàng đến cho khách hàng cuối cùng.


Tuy nhiên, hạn chế của mô hình này là DN tiếp cận với quá nhiều với quảng bá, lên mạng, nhắn tin... cho nên mô hình thứ ba được xem là vượt qua hai mô hình kia là cung cấp quảng bá maketing và chỉ cần ghi lại DN nào muốn đăng kí mặt hàng trên website, được tạm gọi là chợ điện tử, như chotot.vn, sendo.vn...


Theo Christopher B.Beselin, hiện nay hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn chưa chiếm giữ toàn bộ thị trường bán lẻ Việt Nam, đó là lí do vì sao thương mại điện tử, điển hình là mô hình chợ điện tử chắc chắn sẽ có triển vọng, nhất là khi mô hình này mở rộng được đến thị trường nông thôn. "Vì đây cũng là mô hình giúp Alibaba thành công ở thị trường thế giới", Christopher B.Beselin nhận định.


Theo Doanh nhân Sài Gòn.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.