Thứ Hai, 23 tháng 3, 2015

Uber, Zalo... Hãy thức tỉnh hơn là lo sợ

Uber, Zalo... Hãy thức tỉnh hơn là lo sợ

Với các hãng taxi, nhân viên tổng đài sẽ nhàn rỗi hơn khi các cuộc gọi tới đây thưa dần.



Rẻ, thuận tiện bất ngờ


Mỗi lần có nhu cầu đi taxi, chị Nguyễn Thị Thuý Ngân (quận Thanh Xuân, Hà Nội) cùng nhóm bạn trong công ty mình thường gọi taxi ngay trên chiếc iPhone của mình, thay vì phải điện thoại đến tổng đài. Chỉ vài thao tác, 5-7 phút sau lái xe đã tới. Điều khác biệt là nhờ ứng dụng này, chị có thể xem được giá cước, lộ trình xe và nhận ngay các mã giảm giá.


Những người trẻ như chị Ngân sử dụng các dịch vụ này ngày càng nhiều. Và, ngay trên chiếc điện thoại di động, chị và bạn bè có thể mua sắm, chuyển tiền, đặt vé máy bay, đặt phòng một cách đơn giản, thuận tiện vô cùng.


Chị Ngân là điển hình giới trẻ trong việc ứng dụng công nghệ, từ đó mở ra một xu hướng kinh doanh mới. Sự ra đời của các ứng dụng này, chắc chắn ảnh hưởng không nhỏ tới những mô hình kinh doanh truyền thống.


Đó là do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của dịch vụ Uber - vốn là chủ đề nóng và gây tranh cãi nhiều nhất vừa qua, về tính pháp lí cũng như những lợi ích mà nó mang lại. Dịch vụ chia sẻ, “đi nhờ” xe này hoạt dựa trên một ứng dụng smartphone, giúp kết nối người cần di chuyển và tài xế. Uber đã có mặt ở 45 quốc gia và hơn 200 thành phố trên thế giới, đạt doanh thu 18,2 tỉ USD.


Câu chuyện khác về mô hình kinh doanh mới là đồng tiền ảo Bitcoin. Xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới từ năm 2009, đồng tiền ảo này đã có mặt tại Việt Nam. Một vài đơn vị kinh doanh trong nước nhanh chóng tiếp cận và chấp nhận thanh toán đồng tiền này.


Tính đến nay, đã có 11 triệu Bitcoin đang lưu hành, tương đương 11 tỉ USD. Tuy nhiên, nó lại không chịu sự quản lí của bấy kì ngân hàng trung ương, chính sách tiền tệ và tài khóa nào. Không những thế, mức tăng giá của tiền ảo Bitcoin nhanh chóng mặt. Giá của mỗi Bitcoin trong nước có thời điểm dao động từ 20-21,5 triệu đồng/Bitcoin mua vào, trong khi bán ra là 23,8 hoặc 24,5 triệu đồng.


Rõ ràng, các mô hình kinh doanh mới có ưu điểm nổi bật là cách thức sử dụng dịch vụ đơn giản hơn nhưng mang lại hiệu quả cao.


Với dịch vụ đặt taxi qua ứng dụng di động, nếu khách hàng có thể xem lịch trình đi, tham khảo thông tin tài xế và các mức khuyến mãi thì lái xe cũng đánh giá cao sự thông minh của tính năng chỉ đường trên thiết bị, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí.


Sự phát triển và tồn tại của những dịch vụ như Uber cho thấy, trong nhiều ngành công nghiệp, những mô hình già cỗi đã đến lúc phải đổi mới và thay thế. Với các doanh nghiệp đó, công nghệ lại là mối đe dọa lớn.



Ví như trong lĩnh vực thời trang, các shop truyền thống đang bị lấn lướt bởi xu hướng kinh doanh qua mạng. Những trang web bán hàng online giúp quảng bá rộng rãi, tiết kiệm hơn rất nhiều so với việc mở một cửa hàng trực tiếp, thuê nhân công, đội ngũ bán hàng và trả tiền thuê địa điểm.


Ngoài ra, các nhà mạng cũng phải đối mặt với nhiều ứng dụng trong giao tiếp, đang phát triển bùng nổ và lôi kéo lượng lớn khách hàng. Điển hình trong nhóm này là Zalo của VNG nay đã có 20 triệu thuê bao chỉ sau gần 3 năm phát triển, chưa kể tới Viber, Facebook. Doanh thu về tin nhắn của nhà mạng chắc chắn sẽ bị suy giảm.


Nền kinh tế chia sẻ


Câu chuyện kinh doanh của Uber là một bước tiến đang dần hình thành nền kinh tế chia sẻ ở Việt Nam. Kinh tế chia sẻ (sharing economy), hoặc kinh tế theo yêu cầu (on demand economy) đã phát triển rất mạnh trên thế giới. Nói một cách dễ hiểu, đây là mô hình kết nối để những người tiêu dùng có thể tận dụng nguồn lực dư thừa của nhau.


Theo The Economist, kinh tế chia sẻ còn được hiểu rộng hơn, giống như việc tận dụng triệt để nguồn lực.


Một khảo sát mới công bố của Nielsen cho thấy kinh tế chia sẻ có tiềm năng lớn để phát triển tại Việt Nam. Theo đó, cứ bốn người Việt được hỏi thì có ba người cho biết thích ý tưởng về mô hình này. 76% cho biết sẵn sàng tận dụng các sản phẩm và dịch vụ chia sẻ, chỉ 18% từ chối chia sẻ tài sản cá nhân của mình. Nghiên cứu này dự báo, nền kinh tế chia sẻ sẽ phát triển mạnh tại Việt Nam do xu hướng người tiêu dùng sẻ dụng điện thoại thông minh ngày càng nhiều.


Không ai có thể phủ nhận vai trò của công nghệ thông tin trong kinh doanh hiện nay. Vấn đề đặt ra, không chỉ Việt Nam mà ngay cả nhiều nước trên thế giới chưa ra luật theo kịp sự thay đổi hàng ngày của công nghệ.


Ảnh

Các shop thời trang truyền thống đang bị lấn lướt bởi xu hướng kinh doanh qua mạng.



Câu chuyện tranh cãi xung quanh Uber chính là Việt Nam chưa có một cơ chế quản lí về vấn đề này. Xét về luật, Uber đang hoạt động trái phép và cần bị cấm trước khi có một quy định rõ ràng hơn về cách thức hoạt động của loại hình taxi này.


Hay Bitcoin vừa vào Việt Nam đã bị “vùi dập”, bởi khi nó trở thành một công cụ giao dịch tiền tệ đồng nghĩa với việc rủi ro trong thanh toán sẽ tăng mạnh do không có một cơ quan quản lí nào chịu trách nhiệm. Chính vì thế, giao dịch bằng đồng tiền này trong nước ngay lập tức bị cho là phạm pháp.


Người ta đã quá bám chặt vào những quy định kiểu như “giấy phép hoạt động”, “phá giá”, “cạnh tranh không lành mạnh”... mà không nhận ra rằng, công nghệ và nhu cầu của thế hệ mới sẽ không dừng lại. Mô hình kinh doanh mới đã đủ lớn để đánh thức các cơ quan quản lí cũng như doanh nghiệp.


Mặc dù cấm hay không cấm, dù sao, Việt Nam cũng phải đi theo quá trình hội nhập và xu hướng của công nghệ. Luật sư Trương Thanh Đức, chủ tịch Công ty luật Basico, cho rằng, một khi đã hội nhập sâu, rộng với thế giới, thì muốn hay không vẫn phải chấp nhận thực tế các mô hình, cách thức kinh doanh mới. Nếu ngăn cấm là trái với quyền tự do kinh doanh đã được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật Đầu tư sẽ có hiệu lực vào ngày 1/7 tới đây. Vấn đề chỉ còn là thời gian và điều kiện chấp nhận thế nào.


Ông Đức cho rằng, đầu tiên là phải chỉnh sửa luật pháp cho phù hợp. Sau đó là phải có công cụ, cách thức để quản lí như các quy định về giao dịch điện tử, thuế, công nghệ thông tin và nắm bắt, xử lí kịp thời những vấn đề phát sinh. “Xu hướng kinh doanh theo công nghệ mới đang rất được quan tâm và tăng trưởng nhanh chóng, tương lai sẽ chiếm ưu thế trong nhiều lĩnh vực”, ông Đức nói.


Về phía người tiêu dùng, ông Đức đưa ra lời khuyên: “Tốt nhất là chủ động tìm hiểu, tiếp cận ứng dụng để tránh bị thiệt hại”.


Theo VietNamNet.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.