Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Sẽ ra quy định giám sát An toàn thông tin trong 2015

Sẽ ra quy định giám sát An toàn thông tin trong 2015

VNCERT cho biết, trong năm 2014, VNCERT đã được giao xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 72/2013/NĐ-CP (NĐ 72) về việc giám sát An toàn mạng Internet Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, vào tháng 7/2014, Trung tâm được bổ sung thêm nhiệm vụ xây dựng Thông tư hướng dẫn nội dung đặt thiết bị giám sát theo Nghị định 25/2014/NĐ-CP (NĐ 25) về phòng chống tội phạm công nghệ cao. Qua thảo luận, trao đổi với các đơn vị liên quan của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng đã thống nhất kiến nghị việc ghép nội dung hướng dẫn Nghị định 25 vào Thông tư này và đề nghị chuyển thành Thông tư liên tịch của 3 Bộ. VNCERT đã đề nghị lãnh đạo Bộ cho phép điều chỉnh nội dung thành xây dựng Thông tư liên tịch 3 Bộ ( Bộ TT&TT, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng) hướng dẫn cho cả 2 Nghị định 72 và25.


Theo kế hoạch, Thông tư liên tịch 3 Bộ TT&TT, Công an và Quốc phòng hướng dẫn về giám sát An toàn thông tin hướng dẫn thực hiện Nghị định 72 và Nghị định 25 sẽ được hoàn thành, trình ban hành trong quý II/2015.


Trong năm 2015, VNCERT cũng sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ lớn như: phối hợp cùng Cục An toàn thông tin hoàn thiện và trình Quốc hội dự thảo Luật An toàn thông tin; Hoàn thành ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 77 về bổ sung, sửa đổi Nghị định 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 của Chính phủ về chống thư rác; phối hợp cùng Vụ Khoa học - Công nghệ hoàn thiện các tiêu chuẩn quốc gia về Quản lí rủi ro an toàn thông tin; tham gia thẩm định khung đào tạo về An toàn thông tin.


Đối với hoạt động ứng cứu sự cố an toàn thông tin trên mạng, năm 2015, VNCERT xác định sẽ tiếp tục giữ vững nhịp độ xử lí sự cố, tăng cường khả năng phối hợp trong điều phối và hỗ trợ cơ sở; hoàn thiện mạng lưới điều phối theo Thông tư 27/2011/TT-BTTTT, tổ chức hoạt động chia sẻ thông tin, báo cáo, phối hợp tốt với các doanh nghiệp, các cơ quan chức năng; tăng cường tổ chức diễn tập an toàn thông tin cấp toàn quốc và cấp ngành, địa phương; đồng thời trình Bộ phương án tăng cường lực lượng kĩ thuật và tổ chức các nhóm ứng cứu và hỗ trợ cơ động.


Thời gian tới, cùng với việc vận hành hệ thống kĩ thuật giám sát và chống thư rác, VNCERT sẽ mở rộng các hoạt động giám sát, thu thập thông tin và cảnh báo sớm. Cụ thể như, đẩy mạnh hoạt động khai thác hệ thống kĩ thuật giám sát an toàn mạng Internet tại Việt Nam, tích hợp hệ thống bẫy mã độc honeypot trên mạng; lập kế hoạch thực hiện chương trình giám sát và bóc gỡ các mạng lưới botnet (máy tính ma) ở Việt Nam.


Đại diện VNCERT cho hay, trong năm 2014, đã ghi nhận 19.789 sự cố gồm các loại sự cố tấn công lừa đảo, tấn công thay đổi giao diện và tấn công cài mã độc lên website; phát hiện trên 3,37 triệu lượt địa chỉ IP của Việt Nam nằm trong mạng botnet.


Trong tổng số 19.789 sự cố được ghi nhận năm 2014, có 1.458 sự cố tấn công lừa đảo, tăng 179% so với năm ngoái. VNCERT đã gửi yêu cầu điều phối và xử lí được 1.138 sự cố, tăng 145% so với năm 2013. Về sự cố tấn công cài mã độc lên website, ghi nhận được 10.037 sự cố, đã gửi yêu cầu điều phối và xử lí 5.976 sự cố, trong đó có 20 sự cố liên quan đến tên miền “.gov.vn”. Với loại sự cố tấn công thay đổi giao diện, ghi nhận được 8.291 sự cố, tăng 406% so với năm 2013, trong đó có 274 sự cố liên quan đến tên miền “.gov.vn”, đã gửi yêu cầu điều phối và xử lí 4.493 sự cố.


Trong hơn 3,37 triệu lượt địa chỉ IP của Việt Nam bị phát hiện nằm trong mạng botnet, VNCERT đã gửi cảnh báo cho 8.233 địa chỉ IP thuộc cơ quan nhà nước. Đồng thời, Trung tâm cũng đã gửi cảnh báo và tài liệu hướng dẫn phát hiện gỡ bỏ Botnet tới tất cả các đơn vị quản lí các địa chỉ IP nêu trên, trong đó đã trực tiếp hỗ trợ nhiều Bộ, ngành, tỉnh và thành phố bóc gỡ mã độc.


Bên cạnh đó, trong năm 2014, VNCERT đã gửi cảnh báo 88 sự cố tấn công tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) cho các nhà cung cấp dịch vụ Internet: Viettel, ODS, CMC, FPT, QTSC, Hanel, Nhân Hòa, SPT và VDC; gửi cảnh báo xử lí mã độc tại các website tham gia tấn công từ chối dịch vụ vào hạ tầng tài chính của Mỹ, ghi nhận và xử lí 79 liên kết dẫn tới mã độc.


Đặc biệt, trong năm 2014 vừa qua, VNCERT đã thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, cảnh báo và hướng dẫn các cơ quan nhà nước khắc phục các sự cố an ninh thông tin nguy hiểm và có phạm vi ảnh hưởng rộng.


Điển hình là VNCERT đã phát hiện sớm và cảnh báo trên diện rộng 3 lỗ hổng an toàn thông tin nghiêm trọng nhất trong năm 2014 đồng thời đưa ra giải pháp kịp thời hỗ trợ các tổ chức xử lí các lỗ hỏng này, bao gồm: lỗ hổng bảo mật HeartBlead ảnh hưởng đến bộ thư viện OpenSSL và giao thức truyền tin siêu văn bản an toàn HTTPS; lỗ hổng an toàn thông tin có tên quốc tế ShellShock ảnh hưởng đến giao diện Bash Shell của các hệ thống sử dụng hệ điều hành Linux như máy tính, một số thiết bị nhúng, thiết bị mạng, thiết bị bảo mật và thiết bị điều khiển tự động trong các lĩnh vực công nghiệp - ICS/SCADA; Lỗ hổng của thiết bị lưu trữ USB cho phép tin tặc cài mã độc vào phần mềm điều khiển thiết bị (Firmware) để xây nhập và ăn cắp thông tin trên các máy tính kết nối với thiết bị lưu trữ USB đó.


Theo ICTnews.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.