Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

3 chiêu “moi tiền” người dùng của các hãng công nghệ

3 chiêu “moi tiền” người dùng của các hãng công nghệ

Liên tục giảm giá là biểu hiện rõ ràng nhất của kinh doanh hớt váng.



Hớt váng


Có thể nhiều người tiêu dùng đã nghe đến hai chữ "hớt váng". Đây là cách định giá phổ biến nhất của các hãng điện thoại tại Việt Nam. Một chiếc điện thoại cao cấp khi vừa lên kệ sẽ có giá cao ngất ngưởng để bán cho những đối tượng có điều kiện và đam mê công nghệ, sau đó giảm giá dần dần để tiếp cận với những đối tượng khách hàng ở tầm trung.


Ví dụ dễ thấy nhất là những smartphone Android cao cấp. Với vòng đời sản phẩm ngắn và áp lực cạnh tranh cao, đây luôn là mặt hàng được các đại lí (hoặc ngay cả từ hãng) bán theo kiểu "hớt váng".


Để tránh trở thành "nạn nhân" của chiến lược định giá này, nhiều người chọn cách đợi sản phẩm lên kệ một vài tháng rồi mới quyết định mua. Đây là một cách tiêu dùng thông minh nếu người mua không quá ham muốn sở hữu sớm sản phẩm đó. Nếu người dùng thực sự yêu thích trải nghiệm công nghệ mới, giá "hớt váng" không phải là một trở ngại, mà là một sự đánh đổi có chủ đích.


Trói chân


Trong khi "hớt váng" là chiêu bán hàng người dùng có thể đối phó được bằng cách chờ đợi giảm giá, thì định giá kiểu "trói chân" là một chiến lược khôn khoan và khó tránh hơn nhiều của các hãng công nghệ. Chiêu trò này dựa trên một quy tắc cơ bản "bán món hàng A với giá bèo, nhưng bán giá món B với giá đắt. Không mua B thì không dùng được A".


Ảnh

Định giá kiểu trói chân thường xuất hiện trong kinh doanh thiết bị ngành ảnh.



Với quy tắc trên, dễ nhận ra chiêu "định giá trói chân" này thường được các hãng máy ảnh, máy in,.. áp dụng. Một body (thân máy) được bán với giá gần như không có lãi để kích thích người dùng mua sắm, nhưng hệ thống lens (ống kính), phụ kiện chính hãng được bán với giá cao để "moi tiền" dần dần từ người dùng. Tương tự, mực in và giấy in ảnh mới là chi phí khiến người dùng "đau đầu" khi mua về một chiếc máy in.


Trên di động, hình thức mua bán trong ứng dụng (in app purchase) cũng là một chiến lược kiểu "trói chân" được các nhà phát triển áp dụng một cách thuần thục. Một tựa game, một phần mềm được tải về miễn phí, nhưng khi người dùng thực sự thích nó, họ có thể trả thêm tiền để có thêm các vật phẩm hoặc tính năng đáng giá.


Nhử mồi


Đúng như tên gọi, "nhử mồi" là một chiến lược định giá dựa vào lòng tham của người tiêu dùng. Chiến lược này dựa trên quy tắc: "A có giá khá tốt, nhưng có thể bỏ thêm một ít tiền mua B để tốt hơn. A và B đều là sản phẩm của công ty C".


Ví dụ sinh động nhất chính là trò ma mãnh của Apple trong việc bán iPhone 6. Hãng này khai tử bản 32 GB, chỉ để lại bản 16 GB như một "con mồi" nhằm dụ dỗ người dùng mua bản 64 GB. Người dùng chỉ phải bỏ thêm 100 USD để sở hữu phiên bản iPhone 64 GB, được mức dung lượng gấp 4 lần bản 16 GB.


Ảnh

"Nhử mồi" là cách kinh doanh thường được áp dụng để nâng giá trị trung bình của một món hàng. Trong năm 2014, giá trung bình của iPhone 6 đã "vô tình" tăng lên khi Apple khai tử bản 32 GB và giúp hãng này kiếm được một lượng tiền lớn.



Chiến lược khôn ngoan này của Apple đã "nhử mồi" thành công một lượng người dùng không hề nhỏ. Bằng việc bỏ qua bản 16 GB và mua hẳn bản 64 GB, người tiêu dùng đã góp phần khiến hãng này kiếm thêm ít nhất 3 tỉ USD, theo tính toán của Above Avalon. Nếu vẫn giữ lại bản 32 GB, người tiêu dùng sẽ bằng lòng với mức dung lượng này và không "chịu chi" thêm tiền cho Apple.


Tuy vậy, dù "hớt váng", "trói chân" hay "nhử mồi", quyết định mua sắm vẫn hoàn toàn thuộc về người tiêu dùng. Đây là ba kiểu kinh doanh không mới nhưng không phải người tiêu dùng nào cũng nhận ra. Bằng cách ý thức được mình đang bị "câu" theo kiểu nào, chí ít người tiêu dùng cũng có thể tự cân bằng lại giữa ham muốn và nhu cầu thực sự của bản thân.


Theo Zing.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.