Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

8 “căn bệnh” công nghệ mới sinh ra từ thời đại số

8 “căn bệnh” công nghệ mới sinh ra từ thời đại số

Những triệu chứng chỉ xuất hiện trong kỉ nguyên công nghệ là mặt trái của sự hiện đại và Internet đối với đời sống của con người.


Công nghệ hiện đại thực sự đã thay đổi cuộc sống của chúng ta bằng cách mang lại những trải nghiệm mới mẻ, tiện ích và nhanh hơn. Thế nhưng, không có điều gì là hoàn hảo, mặc dù lợi ích đã lấn át đi một số điểm trừ mang lại, công nghệ cũng đã khai sinh ra không ít những “căn bệnh” mà con người có thể đang mắc phải mà không hề hay biết.


1. Phantom Ringing Syndrome


Ảnh

Triệu chứng: Não bạn được kích hoạt cảm nhận rung của điện thoại nhưng trong thực tế điện thoại không hề rung.



Đã bao giờ bạn vội vàng thò tay vào túi quần để lấy chiếc điện thoại vì rõ ràng vừa cảm thấy nó rung nhưng khi nhìn vào màn hình thì lại không thấy bất cứ cuộc gọi đến, tin nhắn hay thông báo nào chưa? Nghe thì có vẻ kì lạ nhưng đây lại là một căn bệnh khá phổ biến đối với người dùng điện thoại.


Theo Giáo sư Larry Rosen, tác giả cuốn sách iDisorder, 70% người dùng thường xuyên sử dụng điện thoại thừa nhận mình mắc phải triệu chứng kể trên.


Giáo sư Larry cũng dự đoán thêm, trong tương lai không xa khi những phụ kiện công nghệ mang mặc xuất hiện trên thị trường đại trà. Hội chứng này sẽ nhanh chóng phát triển thêm nhiều biểu hiện khác. Đơn cử như sau một thời gian dài sử dụng Google Glass, rất có thể người ta sẽ có xu hướng nhìn thấy một thứ mà thực ra thứ đó đang không hề ở trước mắt họ.


2. Nomophobia


Ảnh

Triệu chứng: Cảm thấy bồn chồn khi không được tiếp xúc với các thiết bị di động. (Nomophobia là viết tắt của “No-mobile phobia”).



Nomophobia là cảm giác lo lắng tăng lên dần mà một số người mắc phải khi không được ở gần chiếc điện thoại của mình và sự rối loạn này thực sự có thể có những ảnh hưởng tiêu cực khá trầm trọng lên đời sống người mắc phải. Căn bệnh thời đại số kể trên đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm khi ngày càng có nhiều các trung tâm phục hồi mọc lên và phác đồ điều trị được phát triển để xử lí nó.


3. Cybersickness


Ảnh

Triệu chứng: Cảm thấy mất định hướng và choáng váng khi tương tác với một môi trường hay phụ kiện số nhất định.



Trong khi, một số người dùng tỏ ra vô cùng thích thú với giao diện phẳng, rực rỡ và hoàn toàn mới của iOS thì không ít người lại cảm thấy khó chịu, chóng mặt, nôn nao khi tương tác với hệ điều hành mới này.


Giải thích cho hiện tượng này, các nhà nghiên cứu cho hay đây là kết quả của các hiệu ứng mới được bổ sung trên iOS 7 như parallax viewing hay hiệu ứng zoom khi mở ứng dụng. Theo đó, đây chính là ví dụ mới nhất của căn bệnh “Cybersickness”.


Cụ thể, căn bệnh này lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 1990 để miêu tả cảm giác mất định hướng khi một người tiếp xúc với hệ thống mô phỏng thực tế ảo lúc bấy giờ. Sự nôn nao được cho là đến từ cảm giác chóng mặt do sự di chuyển mà não cảm nhận trong khi ta lại đang đứng yên.


4. Facebook Depression


Ảnh

Triệu chứng: Sự chán nản với căn nguyên đến từ mạng xã hội Facebook



Loài người là một loài sinh vật bậc cao có tính xã hội lớn, do đó, rất nhiều người đã nghĩ rằng tăng giao tiếp trên mạng xã hội sẽ làm con người vui hơn nhưng thực tế thì ngược lại.


Một nghiên cứu của trường Đại học Michigan, Hoa Kì đã khẳng định rằng sự thất vọng, buồn chán ở người trẻ tỉ lệ thuận trực tiếp với khoảng thời gian họ dành ra lang thang trên Facebook. Trong đó một lí do có thể đến từ việc mọi người thường có xu hướng đăng những điều vui vẻ, hoàn hảo lên Facebook do đó người khác có thể sẽ lầm tưởng rằng tất cả mọi người đều dường như có một cuộc sống hạnh phúc, vui vẻ hơn họ.


Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng nói thêm rằng bạn có thể giải quyết được vấn đề trên bằng cách duy trì cân bằng cuộc sống trên mạng xã hội và cuộc sống ngoài đời thực để hiểu hơn và có cái nhìn đúng hơn về những người bạn của mình.


5. Internet Addiction Disorder


Ảnh

Triệu chứng: Liên tục sử dụng Internet mặc ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe.



Internet Addiction Disorder (tạm dịch: rối loạn hành vi nghiện Internet) ám chỉ trực tiếp đến thời lượng sử dụng Internet hàng ngày vượt quá mức độ cho phép của một cá nhân. Nói về hậu quả của căn bệnh này, các nhà nghiên cứu cho rằng nó sẽ tác động tiêu cực không ít đến sự tự tin và năng suất làm việc của một người.


6. Online Gaming Addiction


Ảnh

Triệu chứng: Có thói quen chơi game trực tuyến nhiều và không lành mạnh.



Theo một nghiên cứu năm 2000 được thực hiện bởi chính phủ Hàn Quốc, 8% dân số nước này thuộc độ tuổi từ 9 đến 39 mắc phải một trong hai căn bệnh hoặc là nghiện Internet hoặc là nghiện chơi game online. Tình trạng này nghiêm trọng đến mức họ đã phải cắt kết nối Internet cho đối tượng người dùng dưới 16 tuổi từ nửa đêm đến 6 giờ sáng. Trên thực tế thì rất nhiều các nguồn nghiên cứu đều cho rằng nghiện game là một nhánh nhỏ của nghiện Internet và hậu quả của chúng thì tương tự nhau.


7. Cyberchondria


Ảnh

Triệu chứng: Có xu hướng tin rằng mình bị mắc bất cứ thứ bệnh gì đọc được khi online.



Cơ thể con người là một tập hợp của những bất ngờ và ngẫn nhiên có thể cho chúng ta các trải nghiệm đau, nhức... mỗi ngày. Hầu hết những cảm giác khó chịu đó đều không có gì quá nghiêm trọng và sẽ tự biến mất trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, với một số người, mọi chuyện có thể sẽ thành ra rất khác bởi một nguồn kiến thức y học rộng lớn trôi nổi trên Internet.


Bạn bị đau đầu và quyết định sẽ tìm thử xem nguyên nhân là gì. Vô tình , một trang web có đề cập đến đau đầu là triệu chứng u não. Bạn giật mình và bắt đầu lo sợ mình đang mắc phải thứ bệnh trầm trọng này?


Đây chính là xu hướng của một người mắc phải hội chứng Cyberchondriac thường tưởng tượng. Năm 2008 thậm chí Microsoft đã tiến hành hẳn một nghiên cứu khá dài hơi về ảnh hưởng của việc tự khám bệnh bằng cách tìm kiếm thông tin trên Internet có thể dẫn đến những kết luận tồi tệ ra sao của người dùng.


8. Google Effect


Ảnh

Triệu chứng: Có xu hướng tự động nhớ ít thông tin hơn bởi mặc định tất cả đều có trên Google sau một vài cú click chột.



Nhờ có Internet, con người có thể nhanh chóng tiếp cận với tri thức nhân loại, tuy nhiên, mặt trái của nó đã làm cho chúng ta trở nên lười suy nghĩ và tư duy hơn.


Theo Giáo sư Rosen, hiệu ứng Google không hẳn là một điều quá tệ, tuy nhiên, trong một vài trường hợp nhất định nó sẽ mang lại những kết quả tiêu cực. Ví dụ như, một đứa trẻ không chịu nghe giảng trên lớp bởi mặc định cậu cho rằng tất cả những điều đó đều có thể nhờ các công cụ tìm kiếm tìm ra được.


Theo Trí Thức Trẻ



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.