Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

Thu hồi các sản phẩm điện tử hết hạn sử dụng: Bài toán khó!

Thu hồi các sản phẩm điện tử hết hạn sử dụng: Bài toán khó!

Tuy nhiên, thu hồi những gì, thu hồi như thế nào và xử lí ra sao là cả một bài toán cực kì hóc búa.


Nhà sản xuất, kinh doanh tự thu gom


Theo Quyết định 50/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 1/1/2015, các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu sản phẩm thải bỏ sẽ thu hồi tất cả điện thoại di động, máy tính bảng hết hạn sử dụng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Quyết định nêu rõ, sản phẩm thải bỏ là sản phẩm đã hết thời hạn sử dụng hoặc sản phẩm được thải ra sau quá trình sử dụng. Thủ tướng yêu cầu doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu có trách nhiệm thu lại các sản phẩm này.


Cụ thể, từ ngày 1/1/2015, sẽ tiến hành thu hồi những sản phẩm như ắc quy, pin, bóng đèn, máy vi tính, máy in, máy fax, máy chụp ảnh, máy quay phim, điện thọại di động, máy tính bảng, các loại đầu đĩa... Trong khi đó, những sản phẩm, như máy photocopy, tivi, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, máy giặt hết hạn sử dụng sẽ bắt đầu được thu gom từ ngày 1/1/2016.


Thực tế cho thấy, với những nơi đông dân như TP HCM và TP Hà Nội, mỗi năm có hàng triệu chiếc điện thoại phải thải bỏ do lỗi thời, hư hỏng... Về phía người dân, họ cho biết, thường vứt điện thoại cũ vào sọt rác hoặc cho người bán ve chai. Chỉ có một số ít người đem điện thoại đến những điểm thu nhận điện thoại cũ để đổi, bù tiền mua điện thoại mới. Còn sau đó số phận những điện thoại này ra sao thì họ không rõ.


Về thắc mắc không biết điện thoại sử dụng bao lâu thì hết hạn sử dụng, phải thu hồi? Ông Dương Thanh An, Vụ trưởng Vụ Chính sách và Pháp chế (Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường) giải thích: “Theo quy định, đơn vị sản xuất phải công bố tuổi thọ của sản phẩm. Tuy nhiên, nếu hết hạn mà người dân còn sử dụng được thì họ cứ sử dụng, không bắt buộc phải giao nộp sản phẩm này. Khi nào sản phẩm bị hư, không sử dụng được nữa, người dân muốn bỏ đi thì mới giao nộp. Phía nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm thu gom, xử lí các sản phẩm thải bỏ”.


PGS.TS Huỳnh Trung Hải, Viện Khoa học và Công nghệ môi trường - Trường ĐH Bách khoa Hà Nội cho hay, hiện nay trong tổng số 15 công ty được cấp phép xử lí rác thải điện tử thì chỉ có 3 đơn vị được đánh giá là có dây chuyền xử lí đầy đủ (tái chế/xử lí/thải bỏ các kim loại từ rác thải điện tử) tại 3 địa phương: Hải Dương, Bình Dương và Hà Nội.


Trên thực tế thì các thiết bị điện tử thải từ hộ gia đình, văn phòng thì gần như không thể kiểm soát và chúng được bán lại ngay khi thải bỏ cho đội ngũ ve chai hoặc cho các cửa hàng dịch vụ. Tình trạng này kéo dài sẽ gây nguy cơ ô nhiễm môi trường cao, tác động nghiêm trọng đến chất lượng môi trường sống cũng như sức khỏe cộng đồng.


Như vậy, mặc dù còn nhiều bất cập về công tác quản lí và cơ sở hạ tầng cho việc xử lí và tái chế rác thải điện tử được thu hồi ở Việt Nam, tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, Quyết định trên là hết sức cần thiết và phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội, môi trường tại Việt Nam bởi hiện nay hầu hết các thiết bị điện tử đều không có hạn sử dụng, người này bỏ ra, người khác tận dụng dùng tiếp...


Rác thải điện tử cao như núi


Tại hội thảo “Giới thiệu, trình diễn công nghệ xử lí rác đô thị”, PGS.TS Trần Thị Hường, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội cũng nêu ra thực trạng, đa số các bãi chôn lấp hiện chỉ đơn thuần là nơi đổ rác, chưa được quy hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành đúng quy định; vị trí gần khu dân cư (cách 200-500m, thậm chí có bãi chỉ cách 100m); không có lớp chống thấm ở thành và đáy ô chôn lấp; không có hệ thống thu gom và xử lí nước rác, khí rác. Việc này gây ô nhiễm đất, nước, không khí và hệ sinh thái, ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng.


Dữ liệu thu thập được từ các cơ quan trực thuộc Liên Hiệp Quốc và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên toàn thế giới cho thấy lượng rác thải điện tử trên quy mô toàn cầu đang không ngừng tăng lên trong những năm gần đây. Ước tính vào năm 2017, lượng rác thải điện tử sẽ tương đương với 200 tòa nhà Empire State cao 100 tầng ở Mỹ. Tính riêng trong năm 2012, rác thải điện tử trên quy mô toàn cầu đạt 54 triệu tấn.


Dự kiến đến 2017, con số này sẽ tăng thêm khoảng 33%, tương đương với 72 triệu tấn rác điện tử sẽ được thải ra môi trường sau khi sử dụng. Rác thải điện tử nguồn gốc từ sản phẩm như tủ lạnh, tivi, điện thoại, máy tính và các thiết bị điện tử khác. Khi thải ra môi trường, chúng có thể gây rò rỉ hóa chất và kim loại nặng ra không khí, đất, nước và thực phẩm, được ví như “quả bom hẹn giờ” đối với sự sống của trái đất.


Ảnh

Cơ quan chức năng Việt Nam bắt giữ một vụ nhập rác thải công nghệ nhưng khai báo là linh kiện điện tử



Còn theo thống kê của Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI - Bộ KH&CN), trung bình mỗi năm, một người Việt Nam thải ra môi trường khoảng 1 kg rác thải điện tử, như vậy tổng lượng rác thải điện tử cả nước lên tới 90.000 tấn/năm. Sự gia tăng nhập khẩu các sản phẩm này cùng với sự gia tăng của lượng sản phẩm bị thải bỏ đang khiến Việt Nam có nguy cơ trở thành “núi rác” công nghệ hết sức đáng ngại.


Về vấn đề tiêu hủy sản phẩm điện tử hết hạn như thế nào, ông Dương Thanh An cho biết, đơn vị này đang tổ chức lấy ý kiến cho thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết định 50 của Thủ tướng Chính phủ về thu gom - xử lí sản phẩm thải bỏ. Sau khi lấy ý kiến xong mới hướng dẫn tổ chức thực hiện.


Theo tìm hiểu của phóng viên thì các linh kiện có mặt trong rác thải điện tử thường có chứa hàm lượng chì, thiếc và các loại kim loại nặng khá cao. Khi được thải loại ra môi trường không qua xử lí, các chất kim loại nặng này sẽ có thể lẫn vào trong môi trường đất, nước và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, có thể gây ra các bệnh về ung thư, tim mạch...


Do vậy, các chuyên gia khuyến cáo người tiêu dùng nên chuyển giao các sản phẩm hết hạn sử dụng hoặc không còn giá trị sử dụng đến các địa điểm thu hồi để tiến hành tái chế và xử lí, trách việc xả thải trực tiếp ra môi trường.


Ở diễn biến liên quan, trả lời báo chí, ông Yuzo Otsuki, Tổng giám đốc Sony Việt Nam cho biết: Sony Việt Nam đã làm việc với Bộ TN&MT về vấn đề này từ khá lâu và sẽ thông báo với khách hàng của mình trong việc hỗ trợ xử lí các thiết bị điện tử của Sony hết hạn sử dụng trong thời gian tới.


Theo Petro Times.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.