Thứ Hai, 13 tháng 4, 2015

5 năm nữa du học sinh Việt Nam khó vào trường xịn?

5 năm nữa du học sinh Việt Nam khó vào trường xịn?

Cảnh báo tăng dần


Vài năm trở lại đây, tại châu Á, môi giới nhập học nổi lên như một ngành thương mại cực kì sinh lời. Hãng tin Global Post của Mỹ từng có bài viết với tiêu đề “Người châu Á gian lận tràn lan để vào đại học Mỹ”.


Bài viết này khai thác khía cạnh tiêu cực từ nhóm người trẻ châu Á không có thực lực, nhưng gia đình có điều kiện kinh tế tốt, vì vậy mà phụ huynh sẵn sàng bỏ một khoản tiền lớn để con mình có tên trong danh sách sinh viên của một trường đại học danh giá. Theo Global Post, các công ty môi giới chào mời những đối tượng này bằng những bài tiểu luận viết thuê bằng tiếng Anh chuẩn, cùng bộ học bạ được làm giả, kèm theo hàng loạt chứng chỉ, bằng khen… cũng không phải hàng thật. Bên cạnh đó là những sinh viên giỏi sẵn sàng được thuê để đi thi hộ trong kì thi SAT (kì thi chuẩn hóa tuyển sinh vào đại học 4 năm tại Mỹ).


Tùy vào nhu cầu cụ thể của từng gia đình, đối tượng muốn nhập học mà giá cho dịch vụ này dao động từ 5.000 - 15.000 USD.


Còn theo tờ US News & World Report, nếu học sinh được chấp nhận vào một trường top 10 hoặc top 30, nhân viên môi giới có thể được thưởng từ 3.000 - 10.000 USD.


Khảo sát do Zinch China thực hiện cách đây vài năm đối với 250 sinh viên Trung Quốc đang theo học ở các trường Mỹ đã chỉ ra tình trạng gian lận trong ứng tuyển nhập học đại học của sinh viên Trung Quốc rất phổ biến. Khoảng 90% thư tiến cử gửi đến các trường đại học nước ngoài là giả, 70% tiểu luận được viết thuê và 50% bảng điểm phổ thông đã qua “xử lí”.


Trong mùa tuyển sinh 2013, Daniel Grayson – một cán bộ tuyển sinh của ĐH Tufts (Massachusetts, Mỹ) tiết lộ, ông đã phải ném bỏ 1/4 số hồ sơ của sinh viên Thái Lan vì nghi ngờ họ đã gian lận hoặc tự sáng tác lên những câu chuyện tuyệt vời để gây ấn tượng với cán bộ tuyển sinh.


Theo CNN, do sự nuông chiều của cha mẹ khi thuê những huấn luyện viên dạy trả lời phỏng vấn và những cố vấn riêng giúp họ chuẩn bị và nói dối trong quá trình nhập học, độ tin cậy của các ứng viên Thái Lan nói chung ngày càng tệ hơn.


Học sinh Việt Nam có chung “số phận”?


Với hơn 16.500 sinh viên theo học tại Mỹ trong năm 2014, Việt Nam duy trì vị trí thứ 8 trong số các nước có nhiều du học sinh nhất tại nước này. Đáng chú ý là trong một vài năm gần đây, số lượng học sinh Việt Nam trúng tuyển vào các trường thuộc Ivy League của Mỹ tăng khá mạnh. Năm 2014 có khoảng 20 trường hợp học sinh Việt Nam được vào những trường học danh giá nhất của xứ cờ hoa.


Ảnh

ĐH Harvard danh tiếng



Tuy nhiên, đi kèm với điều này là trên các mạng xã hội cũng như râm ran trong giới học sinh câu chuyện về thực lực của những học sinh được nhận và có học bổng vào những trường thuộc hàng “top”. Thậm chí, tên tuổi và giá cả của những “cao thủ” trong giới tư vấn du học cũng được đem ra bàn luận và phỏng đoán.


Trước vấn đề này, giám đốc một trung tâm tư vấn du học khá có tiếng ở Hà Nội chia sẻ, hiện nay, việc “luyện thi” vào các trường “top” của Mỹ bắt đầu từ lớp 11, 12 như thời kì trước là chưa đủ, vì mong muốn của mọi người quá lớn, tham vọng cao hơn, mặt bằng chung cạnh tranh hơn. Do đó, vị giám đốc này cho biết cũng đã từng nhận được câu hỏi và đề nghị của phụ huynh như: Nếu con họ không có thời gian tham gia nhiều hoạt dộng ngoại khóa thì có thể xin chứng nhận được không? Phía trường bên Mỹ thường không kiểm tra ngay được thành tích thì mình cứ ghi vào có được không? Có nên xin điểm, làm lại hồ sơ học tập, xin thư giới thiệu như thế nào? Có thể nhờ giáo viên viết hộ bài luận không?...


Cũng theo vị này, cách đây vài năm đã từng có trường hợp học sinh Việt Nam gian lận và được một số trường của Mỹ nhận vào học, trong đó có trường xếp hạng cao. Tuy nhiên, sau đó học sinh này bị phát hiện và tất cả các trường đã tước lại thư mời.


Chị Trần Phương Hoa, giám đốc điều hành Summit Education Services, cho rằng “Gian lận hồ sơ là một sự cám dỗ quá lớn, nhất là khi việc phong bì phong bao ở Việt Nam quen thuộc".


Tuy nhiên, theo chị Hoa, hiện nay các trường kiểm tra hồ sơ không quá khó, khi có mạng lưới cựu học viên (alumni) người Việt rộng khắp.


“Hơn nữa, có thể cho là vào được trường danh tiếng là rất oai. Nhưng vào rồi mà không học được cũng rất nguy hiểm, bởi ở đó toàn những người cực giỏi, nếu không có thực lực mình sẽ bị đuối. Tôi biết có một sinh viên Việt Nam thuộc lứa đầu tiên vào được Ivy league của Mỹ đã phải ngừng học vì bị trầm cảm. Hay có trường hợp gian lận hồ sơ đã bị phạt và tước thư mời.


Hơn nữa, hãy nghĩ tới việc sau này nếu đạt thành công có thể sẽ bị bới lại đống hồ sơ từ thời học phổ thông, đại học xem có từng gian lận khi thi cử hay viết luận văn không… Nếu chúng ta đi học với tâm thế như thế thật sự không tốt” - chị Hoa khẳng định.


Anh Nguyễn Khắc Nhật Minh, một trong số rất ít học sinh Việt Nam nhận học bổng toàn phần của ĐH Princeton, chia sẻ kinh nghiệm: “Ở Việt Nam, trừ những học sinh sinh viên ngoan nhất, còn đa phần trong thời đi học ai cũng từng… gian lận. Tuy nhiên, ở Mỹ việc gian lận bị đánh giá cực kì nghiêm trọng.


Tôi biết một người học khoa Văn ở Princeton có luận văn tốt nghiệp dài 396 trang, trong đó chỉ có một câu không đề rõ nguồn trích dẫn đã bị đình chỉ học một năm.


Vì vậy, nói về việc gian lận hồ sơ, theo tôi, nếu may mắn, run rủi được nhận vào trường thì vẫn có khả năng bị đuổi hoặc tước bằng tốt nghiệp nếu họ phát hiện ra mình có gian lận nào đó trong quá trình học hoặc trước khi vào trường”.


Anh Nhật Minh còn nhấn mạnh tới một hậu quả nghiêm trọng khác, khi nhìn tới những gì đã xảy đến với học sinh Trung Quốc. “Trong 4 năm học ở ĐH Princeton tôi không thấy học sinh nào từ Trung Quốc sang. Chỉ có học sinh Mỹ gốc Trung hoặc học trung học ở Anh, Mỹ, Hồng Kông…, chứ họ không nhận học sinh thẳng từ Trung Quốc nữa, vì họ không còn tin những hồ sơ gửi từ Trung Quốc nữa. Vì vậy mà, nếu mọi người cứ làm thế, chỉ khoảng 5 năm nữa học sinh Việt Nam sẽ không được nhận vào Mỹ nữa, hoặc ít nhất là những trường mà mình muốn vào.


Tôi chắc chắn là không ai muốn chuyện này xảy ra”.


Theo VietNamNet.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

QUẢN LÝ KHÁCH SẠN NHÀ HÀNG

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN

QUẢN TRỊ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN Nỗ lực tìm một CEO (tổng giám đốc) chuyên nghiệp với kỳ vọng người này sẽ đồng hành, gắn bó lâu dài là tâm lý chung của đa số doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, những cuộc “hôn nhân” đó đều chấm dứt chỉ sau một thời gian ngắn. Khi có sự thay đổi lớn về chiến lược, chẳng hạn như tái cấu trúc, chuẩn bị mua bán – sáp nhập, mở rộng vốn đầu tư và thị trường, các chủ doanh nghiệp thường có nhu cầu tìm kiếm một tướng giỏi để giúp họ lèo lái công việc. Song, khi đã thành công hoặc tạm thành công với chiến lược mới, dấu hiệu rạn nứt giữa đôi bên bắt đầu xảy ra và CEO phải ra đi. Ông Robert Trần, CEO Công ty Robenny khu vực châu Á – Thái Bình Dương, chuyên tư vấn và cho thuê CEO, khuyên, các ông chủ doanh nghiệp đừng quá kỳ vọng vào một cuộc hôn nhân bền vững, lâu dài. “Doanh nghiệp Việt nên thay đổi quan niệm, chọn đúng CEO vào đúng từng giai đoạn phát triển của công ty”, ông nói. Đây cũng là cách thức mà các nước phát triển đã áp dụng thành công.

Khi nào tôi cần thuê CEO?
Nam Long là một tập đoàn chuyên đầu tư và kinh doanh bất động sản đã trải qua 18 năm tồn tại, có 8 công ty con và đang hoạt động mạnh trong 3 lĩnh vực: phát triển quỹ đất, nhà ở và các dự án văn phòng, trung tâm thương mại. Với quy mô ngày càng lớn, ông Nguyễn Xuân Quang, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long, cho biết ông muốn tìm một CEO chuyên nghiệp nhưng 5 năm rồi vẫn chưa tìm được.
Không giống như Nam Long, các công ty như Đồng Tâm, Giấy Sài Gòn đều đã thuê CEO, nhưng rồi họ cũng ra đi. Sau các cuộc chia tay đó, ông Võ Quốc Thắng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đồng Tâm và ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Giấy Sài Gòn, đã có những trải nghiệm quý giá chia sẻ với gần 200 doanh nhân tại buổi Tọa đàm “Finding CEO – Gian nan đường tìm tướng giỏi” do Nhịp Cầu Đầu Tư tổ chức vào cuối tháng 10 vừa qua.
Theo ông Robert Trần, mỗi doanh nghiệp đều trải qua 3 giai đoạn phát triển: bắt đầu phát triển, phát triển và phát triển bền vững. Ở mỗi giai đoạn doanh nghiệp sẽ có mục tiêu khác nhau nên nhu cầu thuê CEO cũng khác nhau. Theo ông, đa số doanh nghiệp lớn tại Việt Nam hiện nay ở giai đoạn đang phát triển, nhưng chính xác là vào đầu, giữa hay cuối giai đoạn thì chủ doanh nghiệp cần phải xác định rõ.
Năm 2007, Đồng Tâm là 1 trong 2 doanh nghiệp lớn của Việt Nam được Bộ Khoa học Công nghệ chọn triển khai thí điểm dự án “Vươn tới đỉnh cao” (BiC – Best in Class), xây dựng những thương hiệu lớn của Việt Nam vươn lên tầm khu vực. Để làm được điều đó, doanh nghiệp phải tái cấu trúc dây chuyền sản xuất, nhân sự… Chủ tịch Võ Quốc Thắng đã mời ông Etienne Lucien Laude (quốc tịch Pháp), từng là CEO Công ty Thiết bị Điện Schneider Vietnam, về giữ chức CEO của Đồng Tâm.
Về Đồng Tâm tháng 8.2008, ông Laude đã bắt tay triển khai module đầu tiên về quản lý sản xuất theo BiC, giúp tiết kiệm tối đa chi phí quản lý, hạn chế tồn kho… Tuy nhiên, cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Đồng Tâm đã kết thúc hợp đồng 2 năm với CEO người Pháp này, dù những module quan trọng của quá trình tái cấu trúc vẫn chưa kết thúc.
Giống như Đồng Tâm, đầu năm 2003, Giấy Sài Gòn tiến hành cổ phần hóa, ông Vị đã bắt đầu nghĩ đến việc thay đổi mô hình quản trị từ gia đình sang kiểu quản lý chuyên nghiệp thường thấy ở nhiều tập đoàn đa quốc gia, thuê CEO điều hành Công ty, còn ông lui về làm chiến lược. Đến năm 2008, Giấy Sài Gòn quyết định tăng vốn, mở rộng đầu tư và đã mời ông Trần Xuân Nam về làm CEO. Ông Nam từng là giám đốc tài chính của nhiều công ty lớn như Đồ gỗ Scancom Việt Nam (Đan Mạch), Coca-Cola Việt Nam, Tập đoàn Kinh Đô và là Phó Giám đốc Công ty Gỗ Trường Thành. Với kinh nghiệm và chuyên môn về tài chính, ông Nam đã rất thành công trong việc huy động vốn cho Công ty. Tuy nhiên, khi Giấy Sài Gòn đặt ra chỉ tiêu duy trì và tăng trưởng doanh thu trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu thì sở trường tài chính của vị CEO mới không còn phù hợp. Cuối năm 2008, ông Nam từ chức.
Lúc này, ông Vị đã mời ông Huỳnh Văn Rô, vốn giỏi trong lĩnh vực bán hàng, về thay ông Nam. Năm 2008, dưới thời ông Rô, tốc độ tăng trưởng của Giấy Sài Gòn có phần ổn định, song tình hình nhân sự lại có nhiều xáo trộn, không ít người giỏi đã ra đi. Đến cuối năm 2009 ông Rô cũng rời Giấy Sài Gòn, ông Vị lại trở về với vai trò CEO.
Cũng với mục đích thay đổi chiến lược, năm 2009, Công ty Cổ phần Kềm Nghĩa quyết định mở rộng thị trường ở nước ngoài, tham vọng xây dựng thương hiệu toàn cầu và mời ông Đỗ Hòa về làm CEO. Ông Hòa từng có hơn 10 năm làm CEO cho các công ty thương mại nước ngoài và Giám đốc Chiến lược Khu vực Đông Nam Á cùng với New Zealand và Úc của Tập đoàn Shell (Hà Lan) suốt 9 năm, trong đó có 2 năm làm chuyên gia cao cấp của Shell tại Indonesia. Tuy nhiên, sau 1 năm, ông Hòa cũng rời Kềm Nghĩa với lý do không đồng quan điểm về chiến lược phát triển của Công ty. Sau 1 năm ông Hòa làm CEO, doanh số của Kềm Nghĩa đã tăng từ 13% lên 21%, ngay trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu và doanh số của toàn ngành lúc đó giảm đến 40%.
Dù đều có kết cục chung đường ai nấy đi, nhưng sau những cuộc chia tay này ông Robert Trần cho rằng, các ông chủ doanh nghiệp nói trên vẫn đạt được những thành công nhất định vì đã chọn đúng CEO vào đúng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến đây một câu hỏi khó lại được đặt ra là biết tìm ở đâu những CEO như vậy.
CEO đến từ đâu?
Theo ông Robert Trần, có 3 nguồn thuê CEO là người Việt làm quản lý tại các công ty đa quốc gia, Việt kiều và nhà quản lý người nước ngoài.
Nhóm CEO người Việt có mặt mạnh là am hiểu thị trường, có nhiệt huyết và tham vọng phát triển nhanh. Đặc biệt, họ cùng có chung ngôn ngữ, am hiểu văn hóa làm việc của người Việt. Trong khi đó, các CEO là Việt kiều đa số có kinh nghiệm quản lý từ các tập đoàn đa quốc gia và lợi thế của họ là giỏi ngoại ngữ, biết văn hóa làm việc ở trong nước và cả nước ngoài. Cuối cùng là CEO người nước ngoài, với lợi thế được đào tạo và làm việc trong môi trường chuyên nghiệp của các tập đoàn đa quốc gia, hiểu thị trường nước ngoài.